Doanh nghiệp lơ mơ về các cam kết của Hiệp định CPTPP
69% DN nghe nói hoặc biết sơ bộ về Hiệp định CPTPP, 25% DN có hiểu biết nhất định, tỷ lệ các DN biết rõ về các cam kết CPTPP còn rất ít.
Tại Hội thảo “Hai năm thực thi Hiệp định CPTPP tại Việt Nam – đánh giá góc nhìn từ doanh nghiệp” do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức ngày 7/4 tại Hà Nội, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch VCCI chỉ rõ: Thông qua khảo sát, 51% DN đánh giá, sự thua kém về năng lực cạnh tranh của chính DN so với các đối thủ sẽ cản trở việc hiện thực hóa các cơ hội kỳ vọng từ CPTPP và các FTA trong tương lai, cùng với đó là các biến động và bất định của thị trường.
“Các yếu tố đến từ phía các cơ quan nhà nước như thiếu thông tin về các cam kết, chậm chạp, vướng mắc và thiếu linh hoạt và hạn chế trong tổ chức thực thi CPTPP và các FTA. Một số nguyên nhân kỹ thuật như quy tắc xuất xứ, cam kết FTA bất lợi cho DN… cũng là nhóm các lực cản khiến cho DN khó hoặc chậm tiếp cận với các lợi thế từ Hiệp định CPTPP”, ông Lộc phân tích.
Theo kết quả khảo sát của VCCI, nếu như 5 năm trước, bất cập trong thực thi của cơ quan nhà nước là những lý do chủ yếu cản trở DN (81-84%) thì nay, đây chỉ là vấn đề với chưa đến 1/2 DN, đứng sau nguyên nhân chủ quan từ năng lực cạnh tranh của bản thân DN. So với trước đây, DN đã bớt lo lắng hơn về thể chế.
Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Khảo sát cho thấy, để chuẩn bị cho tương lai xa mà ở đó CPTPP và các FTA có thể là một trợ lực hiệu quả, có tới 3/4 DN cho biết họ đã/đang có kế hoạch điều chỉnh kinh doanh để tận dụng các hiệp định này. Đầu tiên là điều chỉnh để củng cố bản thân – cải thiện năng lực cạnh tranh nền tảng của DN, sau đó mới tới các tính toán để tận dụng các cơ hội thị trường trực diện từ CPTPP và các FTA, và cuối cùng là các kế hoạch để sẵn sàng cho những cơ hội tầm xa.
Về mức độ hiểu biết của DN về CPTPP, khảo sát chỉ ra có 69% DN nghe nói hoặc biết sơ bộ về Hiệp định này, cao hơn tất cả các FTA khác, 25% DN có hiểu biết nhất định. Tuy nhiên, cứ 20 DN mới chỉ có 1 doanh nghiệp biết rõ về các cam kết CPTPP liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình.
“Kết quả này cho thấy, với một FTA khó và phức tạp như CPTPP thì cần thiết phải có những biện pháp thông tin chuyên sâu, chi tiết và hữu ích hơn cho DN trong thời gian tới”, khảo sát chỉ rõ.
Ông Phan Hữu Minh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên cho biết, 2 năm thực thi Hiệp định CPTPP trong bối cảnh Việt Nam và thế giới gặp nhiều khó khăn bởi dịch Covid-19. Trong khi đó, Hiệp định CPTPP mang tính chất hội nhập nên đã chịu ảnh hưởng cũng như nhiều tác động khác nhau.
“Với các DN có nền móng vững chắc như Samsung Thái Nguyên, sắt thép, xi măng có khâu tổ chức tốt trong khuôn viên riêng biệt nên hoạt động sản xuất kinh doanh không chịu nhiều tác động bởi dịch bệnh. Tuy nhiên, các DN khi tham gia CPTPP cần hết sức tuân thủ theo các quy định chung như quan tâm đến nguồn gốc xuất xứ, từ đó có sự chuẩn bị về tổ chức sản xuất, nâng cao năng lực để không bị sụt giảm về sản lượng và chất lượng”, ông Minh lưu ý.
Kết quả thực thi thấp hơn nhiều so với kỳ vọng
Video đang HOT
Hiệp định CPTPP có hiệu lực với Việt Nam từ 14/1/2019, tới nay đã hơn 2 năm. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các đối tác CPTPP năm 2019 đạt tăng trưởng trung bình 7,2% so với năm 2018, trong khi nhập khẩu chỉ tăng nhẹ ở mức 0,7%. Xuất khẩu sang các thị trường mới trong CPTPP ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng từ 26-36%.
Trong bối cảnh hầu như tất cả các đối tác CPTPP đều giảm nhập khẩu năm 2019 thì việc Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng này cho thấy CPTPP đang ít nhiều tạo ra những tác động tích cực.
Tuy nhiên, ông Vũ Tiến Lộc cho rằng, các kết quả đạt được còn thấp hơn nhiều so với kỳ vọng. Do vậy, các chương trình, hoạt động hỗ trợ DN cần tập trung vào các hoạt động thực chất nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, xúc tiến thương mại ở tầm quốc gia một cách hệ thống đặc biệt là ở các thị trường mới, cập nhật thông tin thị trường và kết nối cung cầu. “Các hoạt động hỗ trợ DN này cũng cần được thiết kế theo nhóm đối tượng riêng, với ưu tiên đặc biệt dành cho các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ”, ông Lộc nói.
Ngoài ra khi tham gia CPTPP, các DN cần chủ động hơn trong việc tìm hiểu cơ hội, cam kết CPTPP và hành động hiện thực hóa lợi ích từ Hiệp định là đòi hỏi quan trọng nhất. Việc nâng cao năng lực cạnh tranh của DN bắt đầu từ nâng cao chất lượng của sản phẩm không chỉ là công việc thường xuyên, mà còn là chìa khóa để DN chớp được các cơ hội từ quá trình hội nhập.
Trên thực tế, những điểm cần khắc phục để tận dụng CPTPP đã được nêu ra từ trước khi Hiệp định có hiệu lực, như sự chủ động và tăng sức cạnh tranh của DN. Vấn đề này các Bộ, ngành đã phổ biến nhiều nhưng rõ ràng, mức độ chủ động của DN đến nay vẫn còn chưa cao.
Quản lý thuế chặt chẽ nhưng không được gây khó cho DN
Đại diện các chuyên gia Hiệp hội Doanh nghiệp (DN) góp ý dự thảo hướng dẫn thi hành một số điều của Luật và Nghị định Quản lý thuế cần tiếp tục điều chỉnh theo hướng chặt chẽ nhưng vẫn phải bảo đảm tạo thuận lợi cho DN và đạt các chuẩn mực quốc tế.
Toàn cảnh Hội thảo. Ảnh:VGP/HT
Đây là nội dung được trao đổi tại buổi góp dự thảo Thông tư hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp tổ chức ngày 22/3 tại Hà Nội.
Ông Lưu Đức Huy, Vụ trưởng Vụ Chính sách (Tổng cục Thuế) cho biết, Thông tư này hướng dẫn thi hành Điều 7, Điều 28, Điều 42, Điều 59, Điều 60, Điều 64, Điều 72, Điều 73, Điều 76, Điều 80, Điều 86, Điều 96, Điều 107 và Điều 124 của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 và Điều 30, Điều 39 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP đối với các nội dung về đồng tiền khai thuế, nộp thuế bằng ngoại tệ và tỷ giá quy đổi; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn; khai thuế, tính thuế, phân bổ nghĩa vụ thuế, mẫu biểu khai thuế; thủ tục xử lý đối với việc chậm nộp tiền thuế; xử lý đối với số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa; nộp dần tiền thuế nợ, hồ sơ nộp dần tiền thuế nợ, hồ sơ gia hạn nộp thuế; trình tự, thủ tục hoàn thuế, phân loại hồ sơ hoàn thuế, tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế; hồ sơ miễn thuế, giảm thuế; hồ sơ xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; xây dựng, thu thập xử lý thông tin và quản lý thông tin người nộp thuế; trình tự, thủ tục hồ sơ kiểm tra thuế; quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số của nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở kinh doanh cố định tại Việt Nam; kinh phí uỷ nhiệm thu.
Đại diện VCCI khẳng định, đây là một thông tư quan trọng, khi được ban hành sẽ tác động, ảnh hưởng tới hoạt động liên quan đến thuế của các DN trong tất cả các ngành nghề sản xuất, đầu tư kinh doanh. Chính vì vậy, hội thảo được tổ chức tạo cơ hội để các DN đề xuất ý kiến, tham gia góp ý cho Dự thảo.
Tại buổi lấy ký kiến, các chuyên gia, đại diện các hiệp hội, các DN đã tích cực trao đổi để cơ quan soạn thảo tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện Dự thảo.
Đại diện PVN góp ý về dự thảo Thông tư hướng dẫn quản lý thuế. Ảnh:VGP/HT
Bà Nguyễn Tuấn Anh đến từ Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) cho biết khá bất ngờ khi đọc dự thảo Thông tư hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định 126/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế được công bố.
Bà Tuấn Anh phân tích, trước đây, ngành dầu được áp dụng cơ chế thuế khác biệt theo Thông tư 36 năm 2016 với thuế xuất khẩu, thuế tài nguyên, thuế thu nhập DN và Thông tư 56 năm 2008 hướng dẫn thực hiện kê khai nộp và quyết toán các khoản thu của PVN.
"Hiện nay, các DN, nhà thầu dầu khí bán được hàng và thu vào đồng tiền nào thì nộp cho chủ nhà đồng tiền đó, điều này thực hiện đã lâu và rất thuận lợi. Dầu khí khác với ngành khác là hợp đồng mua bán khí rất phức tạp. Ví dụ lĩnh vực khí, phải thăm dò, vận chuyển qua đường ống, bán cho người mua, bán cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và EVN bán cho người tiêu dùng. Giá bán được Chính phủ phê duyệt", đại diện Tập đoàn Dầu khí cho biết.
Tuy nhiên, dự thảo mới, nghĩa vụ thuế mới đều áp dụng bằng ngoại tệ trừ thuế xuất khẩu. Bà Tuấn Anh không hiểu sao thay đổi đồng tiền nộp thuế. "Vì nếu DN thu tiền là tiền VNĐ, theo quy định mới, nộp thuế bằng USD thì DN sẽ phải mất thêm công đoạn đi mua để nộp thuế thì sẽ ảnh hưởng tới chi phí, thời gian đi mua cũng ảnh hưởng tới hiệu quả làm việc của DN", đại diện PVN bày tỏ băn khoăn.
"Nếu làm theo dự thảo Thông tư mới sẽ dẫn tới tất cả hợp đồng từ thượng nguồn tới hạ nguồn phải điều chỉnh, trong đó có những hợp đồng đã đàm phán 7-10 năm mới đi đến thống nhất". Do đó, đại diện PVN đề nghị xem xét có nhất thiết phải yêu cầu DN phải nộp bằng ngoại tệ không? "Thực tế bản chất không khác gì khi DN cũng nộp theo tỷ giá quy định", đại diện PVN nhấn mạnh.
Đại diện Công ty Kiểm toán Ern&Young (EY) cũng góp ý về, nên quy định cụ thể về tỷ giá quy đổi như Thông tư 26/2015 và có hướng dẫn rõ hơn về tỷ giá quy đổi để kê khai thuế nhà thầu.
Trong trường hợp phát sinh doanh thu, chi phí, giá tính thuế bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ngoại tệ ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch thực tế theo hướng dẫn của Bộ Tài chính tại Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22 /12/2014 hướng dẫn về chế độ kế toán DN gồm: Tỷ giá giao dịch thực tế để hạch toán doanh thu là tỷ giá mua vào của ngân hàng thương mại nơi người nộp thuế mở tài khoản; tỷ giá giao dịch thực tế để hạch toán chi phí là tỷ giá bán ra của ngân hàng thương mại nơi người nộp thuế mở tài khoản tại thời điểm phát sinh giao dịch thanh toán ngoại tệ.
Với thuế thu nhập DN, trường hợp người nộp thuế được phép hạch toán kế toán bằng ngoại tệ nhưng không được khai thuế, nộp thuế bằng ngoại tệ thì tỷ giá giao dịch là tỷ giá chuyển đổi Báo cáo tài chính ra đồng Việt Nam (theo quy định tại Thông tư số 200/2014/TT-BTC...).
Còn đối với thuế thu nhập cá nhân, thuế nhà thầu nước ngoài do bên Việt Nam khấu trừ, nộp thay... là tỷ giá mua vào của Vietcombank tại ngày cuối cùng của kỳ tính thuế. Trường hợp nhà thầu không mở tài khoản ngân hàng tại Việt Nam thì vận dụng tài khoản của bên Việt Nam - là đơn vị kê khai và nộp thuế thay cho nhà thầu nước ngoài...
Chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh. Ảnh:VGP/HT.
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, chuyên gia kinh tế từ Học viện Tài chính cho rằng, việc có một văn bản hướng dẫn quản lý thuế đầy đủ là bước tiến quan trọng, tránh tình trạng hướng dẫn tản mát, khiến DN gặp khó khăn.
Tuy nhiên, các điều khoản hướng dẫn cần phải bảo đảm trong xu hướng cụ thể, minh bạch, cần có sự chuẩn bị đầy đủ, bền vững hơn.
Một số quy định mới giúp cho việc thu thuế chặt chẽ hơn rất tốt cho cơ quan quản lý. Tuy nhiên, chính vì quá chặt chẽ, thiên về tiện lợi cho cơ quan thuế nhưng lại chưa chú ý đúng mức đến việc cắt giảm thủ tục, thậm chí phát sinh một số yêu cầu gây phiền hà cho DN, điều này đi ngược lại với xu hướng cải cách.
Chuyên gia Đinh Trọng Thịnh dẫn ví dụ về nguyên tắc nộp đâu khấu trừ đó, nhưng dự thảo quy định lại tạo thuận lợi cho cơ quan thuế quản lý, nhưng không theo nguyên tắc này, "tôi nộp lại nhưng không được khấu trừ" không thuận lợi cho DN.
Ông Đinh Trọng Thịnh dẫn ví dụ như thủ tục về miễn, giảm, hoàn thuế rất chặt, tiện cho cơ quan thuế nhưng có những thủ tục gây phiền cho DN. Như cơ quan thuế yêu cầu phải có hóa đơn chứng từ xuất nhập khẩu là không cần thiết, các quy trình thủ tục vẫn nhiều là ngược với xu hướng, cái nào bỏ được nên bớt cho DN. Ngược lại, một số quy định lại chưa đủ chặt.
"Cụ thể, Chương về thương mại điện tử thì chưa quy định rõ trách nhiệm của các sàn giao dịch thương mại điện tử, cần có quy định đầy đủ hơn, quy rõ trách nhiệm, bảo đảm quản lý tốt về thuế lĩnh vực này", chuyên gia Đinh Trọng Thịnh góp ý.
Phản hồi với chuyên gia Hiệp hội DN, đại diện Tổng cục Thuế ghi nhận ý kiến đóng góp và sẽ có buổi làm việc trực tiếp với các đơn vị liên quan có vướng mắc để bảo đảm tinh thần quản lý chặt chẽ nhưng vẫn tạo thuận lợi cho DN và người nộp thuế chứ không gây khó khăn.
Doanh nghiệp mong chính sách thiết thực hơn nữa khi COVID-19 kéo dài Trong bối cảnh làn sóng thứ 3 của đại dịch COVID-19, ông Đậu Anh Tuấn - Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết: Doanh nghiệp cần thêm giải pháp hỗ trợ thiết thực và hiệu quả hơn nữa để gỡ khó, phục hồi sản xuất. Chính sách gia hạn tiền thuế đã giúp doanh nghiệp...