“Đóa hoa” lay động lòng người
Chưa rõ nữ chiến sĩ viết “Thế hệ Hồ Chí Minh” là ai, nhưng cuốn nhật ký được phát hiện sau gần nửa thế kỷ nằm trong lòng đất, có thể đánh thức nhiều người trẻ thế hệ hôm nay.
“Cuốn nhật ký có thể in thành sách cho tuổi trẻ đọc”. “Phải vào cuộc tìm cho ra ai là chủ nhân của các trang viết đẹp như những đóa hoa này”… Đó là ý kiến của nhiều người khi tận tay cầm cuốn nhật ký bí ẩn với trang bìa ghiThế hệ Hồ Chí Minh được công bố ngày 21/9 tại Bình Dương. Bà Nguyễn Thị Thanh Vân, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Dương, khẳng định sẽ đề đạt những yêu cầu này để lãnh đạo Tỉnh ủy xem xét.
Trận mưa “định mệnh”
Cuốn nhật ký Thế hệ Hồ Chí Minh được tìm thấy cách đây không lâu trong một khu mồ mả của gia tộc ông Huỳnh Văn Sáng ở xã Tân Mỹ, huyện Tân Uyên – Bình Dương. Cuốn nhật ký được phát hiện sau gần 50 năm nằm trong lòng đất đã làm ngỡ ngàng nhiều người vì tình cảm trong sáng và lẽ sống thật đẹp của tác giả, một nữ chiến sĩ chưa rõ tên.
Gia tộc ông Sáng nổi danh với “thi tướng rừng xanh” – Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Huỳnh Văn Nghệ, tác giả 2 câu thơ nổi tiếng “Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” với liệt sĩ Huỳnh Văn Lũy, người được đặt tên cho một con đường ở Bình Dương… Tuy nhiên, ông Sáng khẳng định tác giả cuốn nhật ký Thế hệ Hồ Chí Minhkhông phải là người dòng họ mình mà là một trong 6 chiến sĩ đã hy sinh từng được ông và một số người chôn ghép vào khu mồ mả gia tộc.
Ông Huỳnh Văn Sáng kể lại quá trình phát hiện cuốn nhật ký
Ông Sáng cho biết năm 1963, khi địch càn vào Tân Mỹ, có 2 chiến sĩ tên Anh và Cần sau khi hy sinh đã được ông chôn ở khu mồ mả này. “Cũng năm đó, tôi lên huyện làm nhiệm vụ quân báo, nắm tình hình phục vụ chiến trường. Năm 1966, khi tôi về thì trong khu mồ mả xuất hiện 4 ngôi mộ mới. Hỏi ra, tôi mới biết đây là mộ của 4 chiến sĩ vừa mới hy sinh trong trận đánh lớn ở cầu Chùa, xã Tân Mỹ” – ông Sáng nhớ lại.
Từ đó, ông Sáng liên tục nhang khói cho vong linh các chiến sĩ này. Có lần, ông liên hệ với một lãnh đạo Phòng LĐ-TB-XH huyện Tân Uyên để quy tập 6 hài cốt này vào nghĩa trang liệt sĩ. Công việc chuẩn bị triển khai thì gián đoạn vì người cán bộ này đột ngột bệnh nặng rồi qua đời. Trong khi ông Sáng chưa kịp xác lập chủ quyền đất thì khu mồ mả lọt vào tay một người khác. Năm 2009, mồ mả ở đây bị ủi tan hoang, 6 hài cốt chiến sĩ cũng thất lạc.
Phát hiện cuốn nhật ký là ông Sáng nhưng “người” trực tiếp làm nó xuất lộ khỏi mặt đất lại là… trận mưa to kéo dài khoảng 4 giờ. “Tôi đã đào tìm khu mồ mả, mong thấy dấu tích hài cốt các chiến sĩ. Cách đây không lâu, tôi tìm ròng rã 4 ngày vẫn không thấy gì, đến ngày thứ 5 thì trời mưa tầm tã suốt nhiều giờ. Chiều hôm đó, tôi trở ra khu mồ mả thì thấy nước mưa xói mòn làm ló ra một bọc ni lông. Trong 3 lớp ni lông là cuốn nhật ký nhỏ, dày 35 trang và 6 tấm ảnh úa màu. Tôi liền đem cuốn nhật ký về lật từng trang ra phơi cho khô rồi cất vào tủ” – ông Sáng kể.
Lý tưởng sống quá đẹp
“Giọng văn của Thế hệ Hồ Chí Minh tuy không sâu sắc, mượt mà bằng nhật ký của liệt sĩ Đặng Thùy Trâm hay của anh Nguyễn Văn Thạc nhưng khi đọc, nhiều lúc tôi run lên vì lối viết mộc mạc thể hiện lý tưởng sống quá đẹp của người nữ chiến sĩ” – ông Nguyễn Quang Hiệp, Tổng Biên tập Báo Bình Dương, một trong những người đầu tiên đọc bản gốc của cuốn nhật ký này, xúc động.
Bà Nguyễn Thị Thanh Vân cũng cho biết những trang viết của cuốn nhật ký đã làm bà lay động, đây là minh chứng hùng hồn cho vẻ đẹp tâm hồn của tuổi trẻ thời chiến. Một cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa ở Bình Dương thì cho rằng cuốn nhật ký có thể làm thức tỉnh một bộ phận bạn trẻ đang “ngái ngủ”, thậm chí “gõ” vào cửa lòng đang khép kín của một số cán bộ, đảng viên ngày nay.
Video đang HOT
Thế hệ Hồ Chí Minh không thể hiện rõ tên tuổi, quê quán của tác giả, chỉ biết đó là một nữ chiến sĩ tên M., từng dạy học, quê miền Tây. Trong cuốn nhật ký còn có một số bài thơ. Trong đó, bài Nhớ anh thể hiện sự ngưỡng mộ ý chí anh hùng của anh Nguyễn Văn Trỗi và một tấm hình của anh. Cuốn nhật ký còn có chân dung một cô gái được phỏng đoán là tác giả.
Thế hệ Hồ Chí Minh ghi chép chuỗi ngày công tác, hành quân của tác giả trong khoảng thời gian từ năm 1962 đến 1966. Trong nhật ký, M. tự nhắc mình chưa làm được gì nhiều cho Tổ quốc. M. dặn lòng chưa nên xây hạnh phúc cho mình khi đất nước chưa yên. Cô gái trẻ tự trách mình, ân hận vì nhiều khi lòng còn vẩn vơ, tư tưởng thiếu tập trung, do đó học tập chưa như mong muốn. Cô quyết tâm phải gạt bỏ mọi ý nghĩ riêng tư, cá nhân. Có khoảng thời gian 2 ngày, M. bịnh, không học hành được gì, uống thuốc đã đỡ nhưng vẫn mệt nhiều và cô cố gắng đấu tranh tư tưởng để vượt qua nhằm học tập, công tác tích cực hơn…
Trong cuốn nhật ký, ta bắt gặp một cô gái trẻ bày tỏ hứng khởi khi chọn đúng lý tưởng sống: Một hôm, M. đến điểm học tập. Sinh hoạt ở đây có nhiều điều mới lạ, vui tươi và cô rất thích thú vì “tư tưởng đã lớn, con người cũng mạnh dạn kể từ đây”. M. cũng hay thể hiện cảm xúc lo lắng, thương nhớ quê nhà trong chuỗi ngày đi công tác ở xa. Rồi M. nhận được thư gia đình, trong đó cha mẹ, anh chị rất lo cho cô. “Phải cố làm thế nào để xứng đáng với niềm thương nhớ và lo lắng ấy” – M. viết.
M. sẵn sàng đánh đổi tuổi thanh xuân cho lý tưởng đã chọn. “Đêm nay, được nghe chú Năm nói chuyện tình hình thời sự, M. rất phấn khởi. Quân và dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, ngày một nhiều hơn, vẻ vang hơn. M. phải nỗ lực trau dồi để tiến kịp bè bạn, giàu lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc và dám hy sinh tính mạng khi Tổ quốc cần đến. Phải tỏ thái độ dứt khoát bạn – thù, trước mặt kẻ thù không do dự” – cô quả quyết.
Thỉnh thoảng, sau mỗi trang nhật ký, M. còn tự rút ra cho mình những câu khẩu hiệu viết bằng chữ in hoa: CĂM THÙ> HÀNH ĐỘNG> HỌC TẬP, CÔNG TÁC TỐT LẠC QUAN, PHẤN KHỞI, TIN TƯỞNG QUYẾT TÂM SỐNG, CHIẾN ĐẤU NHƯ ANH HÙNG NGUYỄN VĂN TRỖI…
Ta hãy nghĩ đến Tổ quốc nhiều hơn!
(Trích nhật ký Thế hệ Hồ Chí Minh)
- Tháng 12-1962: Rời mái trường trở về địa phương tham gia cách mạng. Vừa dạy học, vừa tham gia các mặt công tác kháng chiến ở địa phương.
- Ngày 4-6-1964: Ngày giỗ ngoại. Qua lời khuyên của cậu, M. cố khắc sâu vào tư tưởng, cố gắng làm thế nào cho xứng đáng là đứa cháu của cậu, đứa con ngoan của ba má, đứa con ưu tú của Đảng.
- Ngày 5-8-1964: M. có 2 niềm vui. Một là, được thư gia đình và các anh bộ đội. M. mừng quá, cứ muốn đọc mãi thôi. Hai là, ngày hôm nay được tin lần đầu tiên quân dân miền Bắc hạ nhiều máy bay Mỹ.
- Đêm 1-1-1965: “Ta hãy nghĩ đến Tổ quốc nhiều hơn – vì Tổ quốc”. Vâng! M. phải cố gắng làm được. Tự kiểm điểm lại mình, M. thấy mình còn thiếu sót là chưa tận tình giúp đỡ những bạn nhỏ tuổi hơn mình, phải quan tâm nhiều hơn những bạn mà tổ Đoàn phân công mình giúp đỡ. Khuyết điểm của mình là nghiên cứu chưa sâu, nắm vấn đề chưa chắc, chưa tập trung hết tư tưởng. Phải cố gắng thật nhiều, “vì nhân dân, vì Tổ quốc vô tư mà học tập”.
- Ngày 12-3-1965: Mạnh dạn làm việc, nếu không sẽ hỏng, con người ai ai cũng như nhau, không lý gì mà tự ti!
- Ngày 28-3-1965: Ngày đầu tiên bắt tay vào công tác. Lần đầu nói chuyện còn kém. Cần trau dồi thêm cách nói và nhất là cần bình tĩnh, mạnh dạn hơn, khắc phục được sẽ thành công trong công tác.
- Ngày 15-1-1966: Một tuần qua là thời gian lộ chết (nằm hầm). Rất mong tình hình trở lại bình thường để tiếp tục công tác. Không làm được gì, M. buồn nhiều…
- Ngày 21-1-1966: Đến gặp anh C. để bàn công tác. Một tin làm M. xúc động vô cùng: người thân (10T) đã rơi vào tay giặc hôm 8-1 (ngày đầu địch càn vào Bắc C2). M. buồn và suy nghĩ nhiều. Dù rằng đối với M. chưa có gì là kỷ niệm sâu sắc nhưng trong lòng, ngoài tình đồng chí, tình cảm cách mạng ra còn có tình yêu thương đồng chí, bước đầu của tình cảm riêng tư. Đó là tình đồng chí, là người bạn và coi như là người… lý tưởng của M. M. lại nghĩ đến tình yêu thương cao thượng của anh Trỗi – chị Quyên. Đôi vợ chồng vừa cưới nhau 20 ngày, mới chung sống thời gian ít như vậy…
- Ngày 30-7-1966: Tình hình ngày càng gay go, ác liệt, đó là sự báo hiệu địch sắp rơi xuống hố diệt vong.
- Ngày 13-9-1966: Được thư của người anh ruột thịt, M. mừng biết bao! Đọc đi đọc lại mấy lần vẫn muốn đọc mãi. Qua những lời khuyên lơn, dặn dò, M. cố khắc ghi mãi mãi trong lòng. “Tình – lý” phải sòng phẳng cả hai, “đặt tập thể trước, cá nhân sau”. M. cần chú ý hơn những điểm này…
Những trang nhật ký trong Thế hệ Hồ Chí Minh
Theo Dantri
Phía sau bản án tử hình - Kỳ cuối: Tử hình và trắng án
Là nghi can của vụ giết người, phân xác nạn nhân một cách dã man, Denchai Nutiphanich (quốc tịch Thái Lan, làm ăn sinh sống tại VN) đã bị TAND TP.HCM tuyên bản án tử hình. Thế rồi sau nhiều lần bị hủy án, điều tra lại cơ quan tố tụng phải ra quyết định đình chỉ điều tra bị can.
Luật sư Lê Hồng Nguyên (phải) và Denchai trong ngày Denchai được trả tự do (tháng 6-2009) - Ảnh: CHI MAI
Từ chỗ phải nhận bản án tử hình, nghi can đã được trắng án sau gần chín năm bị tạm giam. Vậy hung thủ thật sự đã gây cái chết đau đớn cho nạn nhân, để lại nỗi mất mát không thể bù đắp nổi cho gia đình của họ là ai? Câu hỏi này cũng chính là món nợ của cơ quan tố tụng đối với gia đình nạn nhân.
Vụ án đáng nhớ trong đời một luật sư
Theo luật sư Lê Hồng Nguyên, đây là vụ án đáng nhớ nhất trong cuộc đời làm luật sư của ông. Khoảng giữa
năm 2003, luật sư Nguyên được người vợ VN của Denchai mời bào chữa cho bị cáo. Denchai là nghi can chính trong vụ án giết người, phân xác xảy ra tại khách sạn Quyền Thanh, quận 1 gây kinh hoàng dư luận vào tháng 6-2000. Lúc ông nhận vụ án này, Denchai đã bị xét xử sơ thẩm với mức án tử hình. Theo bản án thì Denchai được xác định là người đã giết chết ông Ngũ Lương, chủ một tiệm vàng tại quận 5, TP.HCM, vì mâu thuẫn tiền bạc trong cá độ bóng đá mùa bóng Euro 2000.
"Ngay khi bắt tay vào đọc hồ sơ vụ án, tôi suy nghĩ rất nhiều bởi cảm nhận vụ án có điều gì đó bất ổn" - luật sư Nguyên cho biết. Theo luật sư, vụ án thật đau lòng. Chiều 27-6-2000, ông Ngũ Lương ra khỏi nhà, có nói với vợ là đi lấy tiền thắng độ bóng đá với Denchai, còn hẹn tối sẽ về dự sinh nhật con gái. Sau đó, ông Ngũ Lương đã mất tích một cách bí ẩn khiến gia đình phải trình báo công an. Ba ngày sau, cơ quan công an nhận được tin báo từ khách sạn Quyền Thanh cho biết nhân viên dọn phòng đã phát hiện một thi thể nạn nhân bị cắt rời gói trong bốn bọc nilông để dưới gầm giường căn phòng 301. Đây là căn phòng mà Denchai đã thuê vào ngày 26-6.
Theo bản án thì Denchai là người đã đưa Ngũ Lương lên phòng khách sạn, sau đó giết chết và phân xác nạn nhân. Theo luật sư Nguyên, bản án kết tội Denchai chủ yếu dựa vào một số chứng cứ như: Denchai là người thuê căn phòng, có quan hệ tiền bạc trong cá độ bóng đá với Ngũ Lương, kết luận giám định dấu máu trong chiếc balô màu đỏ của Denchai là của nạn nhân Ngũ Lương. Cộng thêm một số lời khai của nhân chứng khác về việc Denchai có hỏi thăm nếu một người mất tích thì bao lâu công an sẽ tìm ra? Việc Denchai nhờ người mua 1kg bao xốp đen... Do đó bản án cho rằng Denchai là hung thủ giết ông Ngũ Lương để xù tiền thắng độ bóng đá. Trong khi đó Denchai lại kêu oan, cho rằng có một nhóm người Thái Lan bị Ngũ Lương nợ tiền cá độ nhưng không trả nên yêu cầu Denchai tìm cách đưa Ngũ Lương đến gặp nhóm người này để thanh toán nợ. Lấy lý do chung độ 441 triệu đồng nên Denchai đã đưa Ngũ Lương đến phòng để gặp nhóm đồng hương trên. Còn việc ai giết Ngũ Lương, giết ra sao thì Denchai không biết.
"Chứng cứ quan trọng mà tòa án buộc tội Denchai là vết máu của nạn nhân trong chiếc balô màu đỏ của Denchai. Bản thân tôi cho rằng nếu Denchai chính là người đã đem thủ cấp của nạn nhân đi phi tang thì có lẽ không bao giờ bị cáo lại đem cái balô ấy về nhà. Tôi tin lời khai của Denchai rằng lúc đưa Ngũ Lương lên phòng bị cáo đã bỏ quên balô lại, sau đó một người Thái Lan trong nhóm đã đưa trả lại balô cho bị cáo" - ông Nguyên nói.
Do khách sạn có nhiều đường đi nên nhân viên khách sạn không thể nhìn thấy những người Thái Lan này đã lên phòng của Denchai thuê để gặp Ngũ Lương. Hơn nữa, theo luật sư Nguyên: "Một chi tiết hết sức quan trọng là bao đựng xác nạn nhân được dán băng keo thì trên băng keo có nhiều dấu vân tay lạ, không phải của Denchai. Dấu vân tay này cũng trùng khớp với dấu vân tay để lại trên chiếc điện thoại của nạn nhân Ngũ Lương được tìm thấy sau".
Theo luật sư, về nguyên tắc, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tố tụng, còn nghi can không có nghĩa vụ phải chứng minh mình vô tội. Thế nhưng trong vụ án này, ngoài một số lời khai nhận nghe có vẻ logic của những nhân chứng khác thì cơ quan tố tụng không thể chứng minh được rằng Denchai đã giết nạn nhân bằng cách nào. Giết bằng dao hay bằng gì khác, hung khí của vụ án là gì cũng không xác định được.
Theo luật sư Nguyên, những mâu thuẫn trên đã được tòa phúc thẩm TAND tối cao xem xét và tuyên hủy bản án để điều tra lại. Kết quả là sau hai lần điều tra bổ sung vẫn bị TAND TP.HCM hoàn trả hồ sơ để tiếp tục đề nghị xác minh nhóm người Thái Lan mà Denchai đã khai, đối chất lời khai nhân chứng mà không thể làm được, đến tháng 6-2009, cơ quan điều tra đã phải trả tự do cho Denchai, sau đó đã đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án. Tổng cộng Denchai đã bị tam giam gần chín năm.
Chia sẻ về vụ án này, luật sư Nguyên cho biết: "Tôi cũng rất đau lòng và chịu áp lực trước bức xúc của gia đình nạn nhân. Thế nhưng, để thực thi công lý đòi hỏi phải tuyệt đối chính xác, muốn buộc tội thủ phạm thì phải có đầy đủ chứng cứ, không thể thực hiện việc suy đoán có tội đối với nghi can. Một khi cơ quan tố tụng không đủ chứng cứ để buộc tội thì phải ra phán quyết là bị can không có tội".
Món nợ của cơ quan tố tụng
Nhiều năm đã trôi qua nhưng vụ án Denchai từ bị kết án tử hình rồi được đình chỉ điều tra là một "kỳ án" còn nhiều quan điểm khác nhau của các cơ quan tố tụng. Chia sẻ về vụ án này, một số người tiến hành tố tụng đã từng tham gia truy tố, xét xử theo hướng buộc tội Denchai vẫn cho rằng với các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, họ có đủ niềm tin nội tâm để cho rằng Denchai là người phạm tội.
Thế nhưng, quan điểm cuối cùng của cơ quan tố tụng về vụ án này thể hiện trong quyết định đình chỉ điều tra bị can của cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP.HCM đối với Denchai là: "Đã hết thời hạn điều tra nhưng không chứng minh được bị can phạm tội giết người".
Chia sẻ về vụ án này, một kiểm sát viên cao cấp trầm ngâm: "Có thể nói vụ án này là món nợ của cơ quan tố tụng đối với gia đình nạn nhân. Nếu đủ chứng cứ để buộc tội Denchai thì bản án tử hình là hình phạt hiển nhiên phải áp dụng với bị cáo, bởi tính chất phạm tội quá tinh vi và man rợ với nạn nhân. Thế nhưng, không tìm đủ chứng cứ để chứng minh bị cáo phạm tội thì cơ quan tố tụng cũng đành chịu, không thể buộc tội bị cáo khi còn điều gì đó nghi ngờ, lấn cấn. Khi cho rằng không đủ chứng cứ để chứng minh Denchai, nghi can chính của vụ án, là người đã giết ông Ngũ Lương thì hung thủ thật sự là ai? Trách nhiệm này thuộc về cơ quan tố tụng".
Thật ra, theo vị kiểm sát viên, trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm vẫn phải chấp nhận những trường hợp cơ quan tố tụng phải "chịu thua", không thể tìm ra hung thủ của vụ án mà theo cách nói của nhiều người là "lực bất tòng tâm". Chỉ mong những trường hợp cơ quan tố tụng phải "mắc nợ" người nhà nạn nhân như thế là những trường hợp hi hữu.
Vụ án đã xảy ra nhiều năm qua, nỗi đau của gia đình nạn nhân có thể đã phần nào nguôi ngoai, nhưng mong mỏi của họ về sự công bằng trong thực thi công lý vẫn là một dấu hỏi lớn dành cho cơ quan tố tụng.
Theo Tuổi Trẻ
Phía sau bản án tử hình - Kỳ 6: Sự sống từ ân huệ cuối cùng Từ khi án tử được tuyên tới khi bị cáo phải thi hành án là một quãng thời gian dài với rất nhiều hi vọng của cả tử tù, thân nhân lẫn nhiều người trong hội đồng xét xử. Cán bộ trại giam số 5 (Thanh Hóa) trò chuyện với một phạm nhân. Niềm tin được giảm án khiến nhiều người sống tốt...