Đổ dớn bắt cá đặc sản nơi đầu nguồn An Giang, còn đâu cảnh cá chạy dày đặc, mua được cả tấn
Anh Điền (An Giang) cho biết: “Nước nổi, tôi chỉ mua duy nhất cá linh. Nhu cầu tiêu thụ thì nhiều, mà lượng cá linh chỉ còn khoảng 3 phần so với trước.
Từ 8-9 giờ đến trưa, chắt mót từ nhiều nông dân, tôi gom chừng 100kg cá linh mỗi ngày, chớ nào dám mơ số lượng cả tấn nữa”
Ngay hôm chúng tôi định lên đầu nguồn huyện An Phú ( tỉnh An Giang) gió bấc hồ hởi đổ về. Lỡ hứa với người dân địa phương theo chân họ lúc 4 giờ sáng để xem đổ dớn, tôi đành chịu đựng cơn gió buốt da, mắt nhắm mắt mở khởi hành từ Long Xuyên.
Đến nơi, mới 3 giờ 30 phút. Co ro trong ngày gió trở mình, người dân xung quanh ngạc nhiên: “Đúng là 3-4 giờ bà con thường đi đổ dớn ở khu vực biên giới. Nhưng cả năm nay, dịch bệnh ảnh hưởng, muốn đi cũng phải chờ trời sáng mới được nha!”.
Người dân đi đổ dớn…
Nói thật, tôi đại diện cho thế hệ thanh niên ít gắn bó với ruộng đồng, với con nước, nên cái gì cũng thấy lạ, cũng chẳng rành. Cất vó, đặt dớn, đặt lờ… là những “thuật ngữ” tuy quen, nhưng tôi khó mường tượng ra.
Bởi vậy, dẫu giờ giấc tác nghiệp không suôn sẻ như mong muốn, tôi vẫn háo hức chờ đợi. Đến khi bước xuống xuồng, nghe gió bên sông phả ràn rạt vào mặt, tôi xem mình như khách thương hồ, chìm vào cuộc sống chòng chành, bám lấy mùa nước mà tìm kế sinh nhai.
Sớm, mà chẳng vắng. Chiếc ghe dọc theo đường kênh ngoằn ngoèo ở xã Phú Hội (huyện An Phú), cách một khoảng lại thấy bóng người cần mẫn đối diện với mặt nước, kiểm tra lượng cá “tề tựu” sau đêm dài.
Sống cùng nghề “bà cậu” đã lâu, họ biết giấu niềm khấp khởi khi cá nặng lú, che nỗi thất vọng khi nước rào rạt chảy qua mắt lưới trống rỗng. Đã ăn chén cơm của thiên nhiên, thì được chăng hay chớ, phó thác hên xui!
6 giờ. Nắng hấp háy ở chân trời, khiến gương mặt anh Võ Văn Hợi (sinh năm 1997) càng thêm sạm, già dặn hơn tuổi thật.
Anh cởi trần, nước sông nhấp nhô ngang ngực, tiếng nói ấm ách theo từng hơi thở, cuốn cuộc trò chuyện với chúng tôi theo chiều dài của đường dớn. Đúng là “cuốn” theo nghĩa đen, bởi anh thoăn thoắt sửa dớn, di chuyển liên tục, buộc xuồng máy của chúng tôi chấp chới theo sau.
Cá linh ngày một giảm ở đầu nguồn sông Hậu thuộc tỉnh An Giang.
Video đang HOT
Lần đầu tiên, tôi nghe có người bảo làm nghề này vì… mê, vì yêu, chứ không phải mục đích duy nhất là kiếm tiền.
Anh Hợi kể, từ nhỏ, anh đã gắn bó với sông nước, xem việc ngụp lặn ở dòng sông, cánh đồng ngập nước là chuyện hiển nhiên.
Anh nhìn ba đặt dớn nuôi bầy con trưởng thành. Mỗi mắt lưới, mỗi khúc sông như in vào tiềm thức, nhẹ nhàng mà sâu sắc. Anh “học việc” từ những hôm lẽo đẽo theo ba dập dờn trên nước, biết cảm nhận sức nặng của cá tương quan với sức nặng của tiền. Lớn lên, anh cứ thế mà theo nghề. Theo một lần là cả chục năm, chưa từng nghĩ rẽ sang lối khác.
Bởi anh có lý do riêng của mình. Con nước vô chừng, có khi kéo dài nửa năm, có khi mới mấp mé 2-3 tháng vội rút đi. Thời gian dừng lại trên đồng càng ngắn, người dân càng ít cơ hội đón nhận “lộc” của thiên nhiên.
“Bấp bênh, cực khổ lắm, khi này khi khác. Tới mùa nước giựt, kiếm hoài chẳng thấy cá lên, thu nhập mấy chục ngàn đồng chua chát. Nhưng tôi ham mùa cá chạy! Nước lên, gặp luồng cá chạy mấy chục ký, đổ dớn bán được bạc triệu. Biết nghề bấp bênh lắm chứ! Mà nghĩ đi nghĩ lại, nhiều người không có đất ruộng, không nghề ổn định, họ chọn đi làm ăn xa. Đợt dịch vừa rồi, họ quay trở về quê sinh sống. Tôi có nghề, đâu cần rời đi! Khó cỡ nào cũng xoay trở được, dù sao đây là quê mình, sống dễ dàng hơn” – anh bày tỏ.
Những chiếc dớn cắt xẻ đoạn sông, khoảnh đồng, nhô cao để báo hiệu chướng ngại cho phương tiện thủy. Nghĩ mà phục ông cha ngày trước! Họ phải am hiểu con cá, dòng nước, quy luật tự nhiên đến mức nào, mới có thể tỉ mẩn tạo ra chiếc bẫy công phu, bắt cá số lượng lớn mà chẳng mất nhiều công sức canh chừng?
Đó là cuộc đấu trí giữa con người và thiên nhiên, chất chứa khát khao lao động và thu hoạch thành quả. Sức người bé nhỏ, nhưng trí óc rộng lớn vô cùng.
Theo lời anh Hợi, đầu tư cho dớn cũng bộn tiền, cả chục triệu đồng chớ ít ỏi gì. Để tiết kiệm chi phí, nhà anh tự may dớn, thay vì thuê cơ sở chuyên nghiệp may. Việc đặt dớn chẳng theo quy cách cố định nào, mỗi người đặt theo ý thích, kinh nghiệm cá nhân, không ai giống ai. Từ ngữ chuyên dụng cũng khó hiểu với người ngoài, chỉ cần dân trong nghề hiểu là được.
Anh không quen giải thích, nên sau 5 lần lặp đi lặp lại, chúng tôi mới tạm nắm được ý của anh: Kinh nghiệm của gia đình anh là tạo đường trường dài 150m, càng dài càng dễ thu hút cá.
Bầy cá chạy tung tăng men theo đường trường, ngờ nghệch chui vào bầu ép, lẩn quẩn 2 bên lưới cánh, tiến thẳng vào lú, hết biết đường ra. Rồi anh cứ thủng thỉnh chờ lúc thuận tiện bơi ra, đổ dớn.
Điều thú vị là hầu như chủ đất rộng rãi, cho người khác đặt dớn thoải mái vào mùa nước, hổng lấy đồng bạc nào. Nhưng với điều kiện: phải coi sóc đất, dọn dẹp sạch sẽ để khi nước rút, chủ đất quay lại canh tác thuận tiện.
Nhiều hôm lục bình, rác rưới tấp vào ruộng nhiều, chủ đất nóng nảy đòi nhổ dớn. Bởi vậy, người đặt dớn chộn rộn ra cánh đồng, ngó nghiêng đám dớn của mình thế nào. Hễ phát hiện đoạn dớn hư, sập, cây ngả nghiêng, phải nhanh chóng sửa lại.
Đặt dớn tuy nhàn, nhưng bỏ thí, bỏ liều thì cá dễ gì chạy! Còn về chi phí sửa chữa, cũng hổng chừng hổng đỗi. Có khi mới xài được 1 vụ phải thay, do vỏ lãi, xuồng máy chạy ngang, chém hư, chủ dớn tiếc đứt ruột. Có khi, xài năm này qua năm nọ, dớn vẫn chặn cá ào ào…
Trước khi trò chuyện với tôi, anh Hợi đã ngâm mình trong nước gần 2 giờ đồng hồ, trong cơn gió bấc đầu mùa. Anh bảo, làm gì quen đó, anh không còn biết lạnh nữa. Nói yêu nghề, nhưng anh cười thật buồn khi chúng tôi hỏi, có muốn cho con cái theo nghề?
“Chắc là không. Tôi mong con mình sau này được học hành, làm kỹ sư này nọ. Tôi không nỡ thấy con làm nghề lạnh lẽo, mệt nhọc như mình. Nghề này khổ!” – anh vuốt mặt, nước theo kẽ tay chảy xuống, xua đi chút bần thần.Rong ruổi trên cánh đồng Phú Hội hôm ấy, chúng tôi gặp rất nhiều người bám đời mình vào dớn. Như ông Nguyễn Văn Tâm (sinh năm 1978), người cố cựu ở xã này. Đám lục bình tấp vào dớn, khiến vợ chồng ông vất vả cập xuồng, đẩy chúng ra chỗ khác trước khi kéo lú dưới sông lên. Gió cuốn lời chuyện trò của chúng tôi đi xa, chỉ còn đọng lại tâm tình của ông: “Hồi trước khi có dịch bệnh, vợ chồng tôi đặt dớn gần biên giới, 3-4 giờ đã tất tả kiếm cá. Khúc sông này nhộn nhịp người mua kẻ bán. Ai đặt dớn trúng luồng cá chạy, cầm chắc trúng mánh. Tôi chỉ đặt dớn theo từng khúm nhỏ, nên cá ít. Có nhiêu ăn nhiêu thôi!”.
Người dân đi đặt dớn bắt cá linh…
Mùa nước năm nay, tận dụng thời gian nhàn rỗi việc nông, cả nhà bà Nguyễn Thu Phương (sinh năm 1973) chất lên xuồng ba lá, chia việc để làm. Nhìn người ta làm thì dễ, mà tới lượt mình thì loay hoay, lóng ngóng trước đám lưới, dớn. Được vài hôm, tay chân quen thuộc hơn, họ cảm nhận được niềm vui tự tay kéo cá dưới sông.
Chồng bà phụ trách chèo chống chiếc xuồng nhích tới lui. Cậu con trai 25 tuổi dùng sức kéo lú khỏi mặt nước, lắc cho nhẹ nước rồi đổ cá sang chiếc giỏ bà Phương đang chờ sẵn. Đổ hết dớn rồi, họ túc tắc trở về, đem cá bán cho thương lái.
Trong lúc rảnh tay, bà vui vẻ kể về 2 đứa con nhỏ đang ở nhà học trực tuyến, về ước mong sớm “đón dâu”, về kế sinh nhai mà nửa đời người họ mới bắt đầu làm…10 năm nay, anh Thanh Điền (sinh năm 1992, ngụ xã Vĩnh Hội Đông, huyện An Phú, An Giang) có thể được xem là người gắn bó với dớn một cách gián tiếp.
Chiếc ghe của anh cặp gần đó, chờ người đổ dớn đến bán cá. Anh Điền cho biết: “Nước nổi, tôi chỉ mua duy nhất cá linh. Nhu cầu tiêu thụ thì nhiều, mà lượng cá linh chỉ còn khoảng 3 phần so với trước. Từ 8-9 giờ đến trưa, chắt mót từ nhiều nông dân, tôi gom chừng 100kg cá linh mỗi ngày, chớ nào dám mơ số lượng cả tấn nữa”.
Con cá linh mỏng manh, phải nâng niu từng chút để đến tay “mối” đủ trọng lượng, đủ ngon, đủ nhanh. Bởi vậy, thấy bụng ghe nằng nặng, anh bắt đầu xuôi về TP. Long Xuyên.
Ngày qua ngày, hành trình lặp đi lặp lại, đến khi con nước cạn mới dừng…
Ở góc độ tập quán canh tác, lao động, như nhiều phương thức đánh bắt thủy sản khác, dớn trở thành hình tượng phổ biến của quê hương miền Tây mùa nước nổi, vẽ nên ký ức thân thuộc của người dân.
Nhưng rồi sẽ có ngày, dớn trở thành quá khứ. Bởi, thiên nhiên dần keo kiệt với con người, chẳng còn gì để “cung phụng” . Lúc ấy, người ta lại thở dài, buông bỏ dớn ra khỏi đời mình, nhớ mong những ngày xưa cũ…
'Lộc trời' mùa nước nổi
Hơn 1 tháng qua, tỉnh Đồng Tháp nới lỏng giãn cách xã hội, việc lưu thông nội tỉnh dễ dàng hơn nên người dân tranh thủ ra đồng đánh bắt thủy sản mùa nước nổi bằng nhiều cách như: Giăng câu, giăng lưới, kéo lưới, đặt lờ, đặt lợp, đặt dớn...
Hiện nay, con nước lũ tràn về các cánh đồng ở những địa phương đầu nguồn của tỉnh Đồng Tháp như huyện Hồng Ngự, Tân Hồng, thành phố Hồng Ngự. Trên những đồng nước mênh mông lại trở nên nhộn nhịp với hoạt động đánh bắt thủy sản mùa nước nổi. Bằng nhiều cách khác nhau, người dân tất bật đánh bắt được nhiều loại như tôm, cua, cá, tép..., giúp bà con vùng lũ có thêm thu nhập.
Mỗi mẻ lưới, anh Huỳnh Văn Luân (huyện Tân Hồng) bắt được hơn 10kg cá các loại.
Từ sáng sớm, trên cánh đồng ngập nước ở phường An Bình B (thành phố Hồng Ngự), hơn 10 ngư dân kéo lưới bắt cá lòng tong. Với công cụ là đoạn lưới dài 60m, vợ chồng anh Huỳnh Văn Luân trú xã Tân Thành B, huyện Tân Hồng đã ra đồng bắt cá lòng tong hơn 20 ngày nay.
Gia đình nghèo không có đất sản xuất, gia đình anh sống chủ yếu dựa vào nghề làm thuê. Nước lũ về, đồng nghĩa với việc làm thuê của vợ chồng anh Luân ngày càng ít đi. Do vậy, nghề bắt cá trong mùa nước nổi giúp vợ chồng anh có thêm thu nhập.
Anh Luân chia sẻ, mỗi ngày, anh bắt được khoảng 50kg cá lòng tong, giá bán 10.000 đồng/kg. Dù không khấm khá nhưng tiền bán cá cũng giúp gia đình anh đủ trang trải cuộc sống trong mùa lũ.
Theo nhiều bà con ở vùng đầu nguồn của tỉnh Đồng Tháp, mùa lũ thường từ đầu tháng 8 đến tháng 10 âm lịch hàng năm. Năm nay nước lũ về chậm và lượng thủy sản trong tự nhiên giảm hơn 30% so với năm trước. Việc mưu sinh mùa nước nổi bị gián đoạn suốt nhiều ngày vì người dân phải ở nhà để phòng dịch COVID-19.
Đặt dớn là phương thức bắt cá khá phổ biến trong mùa nước nổi ở Đồng Tháp.
Hơn 1 tháng qua, tỉnh Đồng Tháp nới lỏng giãn cách xã hội, việc lưu thông nội tỉnh dễ dàng hơn nên người dân tranh thủ ra đồng đánh bắt thủy sản bằng nhiều cách như: giăng câu, giăng lưới, kéo lưới, đặt lờ, đặt lợp, đặt dớn... Việc này vừa giúp cải thiện bữa cơm gia đình, vừa mang về thu nhập, giảm bớt khó khăn do ảnh hưởng của dịch bệnh.
Ông Trần Văn Hận ngụ phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự có hơn 20 năm hành nghề đặt dớn mùa lũ. Đặt 4 cái dớn, mỗi ngày ông Hận thu hoạch gần 20kg cá các loại, bán được trên 200.000 đồng.
Ông Hận tâm sự: "Gắn bó với nghề mấy chục năm nên nó như "ăn vào máu" không bỏ được. Năm nào cũng vậy, đến cuối tháng 7 âm lịch là tôi cứ mong ngóng con nước về. Vì khi con nước tràn đồng sẽ mang theo nhiều sản vật mùa nước nổi. Dẫu biết rằng nghề đánh bắt thủy sản tự nhiên lắm cơ cực và bấp bênh nhưng dân nghèo như ông không còn sự lựa chọn khác".
Bên cạnh các sản vật như: tôm, cua, cá, tép..., một nguồn lợi thủy sản khác cũng giúp mang về nguồn thu đáng kể trong mùa lũ là thu hoạch trứng nước. Loài giáp xác này được người dân bắt để bán làm thức ăn cho cá giống, cá kiểng với giá 2.000 đến 8.000 đồng/kg.
Năm nay, nước lũ thấp nên trứng nước xuất hiện khá nhiều so với năm trước. Tuy nhiên, do ảnh hưởng dịch COVID-19, người dân còn hạn chế trong việc đi lại giữa các tỉnh nên thị trường tiêu thụ trứng nước mùa này gặp khó khăn, chủ yếu chỉ tiêu thụ trong tỉnh.
"Suốt gần 20 ngày nay, mỗi ngày, vợ chồng tôi đi kéo trứng nước từ 1 giờ khuya đến 6 giờ sáng, thu được 300kg trở lên. Tuy giá bán khá thấp nhưng sau khi trừ chi phí, cũng còn lời từ 400.000 đến 500.000 đồng/ngày" - anh Nguyễn Văn Ga ngụ xã Long Khánh A, huyện Hồng Ngự cho hay.
Cá lòng tong tươi được bán với giá 10.000 đồng/kg.
Mùa nước lũ là mùa mưu sinh của những bà con ở vùng đầu nguồn tỉnh Đồng Tháp. Năm nay, lũ về đúng thời điểm dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, ít nhiều gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Tuy nhiên, bà con cảm thấy còn may mắn vì địa phương đã nới lỏng giãn cách xã hội, còn kịp để được trở lại với nghề câu, lưới trên những cánh đồng ngập nước, dù thời gian của mùa lũ năm nay không còn nhiều.
Làng nghề đóng xuồng, ghe trăm tuổi ở Đồng Tháp gặp khó do ảnh hưởng của dịch COVID-19 Làng nghề đóng xuồng, ghe rạch Bà Đài (xã Long Hậu, huyện Lai Vung), tỉnh Đồng Tháp ra đời và tồn tại hơn 100 năm qua. Năm 2021, ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 nên hoạt động sản xuất, mua bán xuồng, ghe nơi đây khá "đìu hiu". Dù đang vào thời điểm đánh bắt thủy sản mùa nước nổi nhưng số lượng xuồng,...