Đình làng kỳ bí: Ngôi đình lớn nhất Quảng Nam
Kể từ khi vua Lê Thánh Tông bình phương nam mở cõi (1471) rồi lập đạo Thừa tuyên Quảng Nam, đến nay ngôi đình đã tồn tại gần 550 năm.
Đình Chiên Đàn – Ảnh: H.T
Những cư dân thuở ấy, theo vua vào khẩn hoang, khai ấp, lập nên làng xã, xây dựng đình làng, tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Đình cũng chính là nơi sinh hoạt cộng đồng, che chở con dân qua các cuộc kháng chiến, góp phần giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Ngôi đình lớn nhất Quảng Nam
Ở Quảng Nam bây giờ người dân vẫn còn lưu truyền câu ca nói về quy mô của các ngôi đình trên 500 năm tuổi: nhất La Qua, nhì Thành Mỹ, ba Chiên Đàn. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh, tàn phá, hiện chỉ còn đình Chiên Đàn tồn tại.
Chuyện xưa từ ngôi đình cổ
Đình Chiên Đàn là một trong những công trình kiến trúc đình làng cổ nhất Quảng Nam. Hiện đình tọa lạc tại thôn Đàn Trung, xã Tam Đàn, H.Phú Ninh, cách QL1A chưa đầy 1 km. Theo tư liệu lịch sử, vùng đất Chiên Đàn xưa thuộc huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa. Để tưởng nhớ công ơn những bậc tiền nhân, tiền hiền, hậu hiền đã có công khai sơn phá thạch lập nên địa hiệu Chiên Đàn, người dân trong làng, trong xã thời ấy đã cùng nhau xây dựng đình Chiên Đàn có quy mô bề thế và đặt tên là “Chiên Đàn xã đình”. Đình nằm trên một khu đất cao, bằng phẳng. Đình chính được xây dựng theo hình chữ nhất, mặt xoay về hướng đông nam, mái lợp ngói âm dương, hai đầu của mái có trang trí hoa văn tinh xảo với hình tượng “Lưỡng long triều nguyệt” do những người thợ tài hoa làng mộc Văn Hà thi công. Toàn bộ khuôn viên của đình rộng 1.500 m2, riêng ngôi đình chính rộng 500 m2, có đủ chỗ cho trên 100 người. Đình gồm 5 gian, 2 chái với 30 cột bằng gỗ mít to hơn một vòng tay người lớn, 3 gian giữa dùng làm nơi thờ tự. Bên phải đình có nhà trù (dùng làm nơi để dân đinh canh gác), bên trái là nhà kho đựng lúa, lương thực và tài sản của xã Chiên Đàn… Phía trước cổng tam quan có nhà võ ca, có mái che lớn như sân khấu để biểu diễn võ và ca hát cho nhân dân thưởng lãm trong những kỳ lễ hội. Tuy nhiên, qua thời gian và chiến tranh tàn phá, nhà võ ca chỉ còn lại dấu vết mấy trụ cột…
Theo Trung tâm VH-TT H.Phú Ninh, sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi, ở miền biên viễn phía nam vẫn bất ổn. Mùa xuân năm 1471, vua thân chinh cầm quân tiến đánh Chiêm Thành. Theo Minh quân Lê Thánh Tông và triều thần của tác giả Lê Duy Anh: “Tháng 6.1471, vua lấy đất từ nam Hải Vân đến Thạch Bi sơn (núi Đá Bia, Phú Yên) đặt làm đạo Thừa tuyên Quảng Nam và đặt Vệ Thăng Hoa… Từ ngữ địa danh Quảng Nam bắt đầu có từ đấy và đạo Thừa tuyên Quảng Nam cũng là đạo thứ 13 trong cả nước thời bấy giờ”.
Theo truyền thuyết và lời kể của các bô lão sống gần đình Chiên Đàn, khi vua Lê Thánh Tông đi chinh phạt, bình phương nam, thì nhà vua đã sử dụng đình Chiên Đàn để nghỉ ngơi và đưa ra những quyết sách phù hợp để giành thắng lợi. Đến đình làng nằm ở một vị trí cao ráo, có thể bao quát cả một vùng đất rộng lớn. Cách Chiên Đàn vài cây số là sông Tam Kỳ che chắn. Xung quanh làng Chiên Đàn có nhiều nhánh sông nhỏ bao bọc và hơn hết có rất nhiều đồi cao án ngữ trước sau, rất tốt cho việc bố trí lực lượng để tấn công và phòng thủ. “Xét trên nhiều yếu tố về địa thế, quy mô của ngôi đình, cũng như bên trong đình có nơi để lương thực, rất có thể vua Lê Thánh Tông đã chọn đình Chiên Đàn làm nơi nghỉ ngơi để chuẩn bị cho những trận đánh lớn”, một chuyên gia văn hóa ở H.Phú Ninh nhận xét.
Video đang HOT
Hội quân ở đình làng
Đình Chiên Đàn gắn liền với xã Chiên Đàn xưa, vùng đất được mệnh danh “địa linh nhân kiệt” với nhiều vị anh hùng, khoa bảng một thời vang bóng như: Kiều Phụng, Đống Công Trường, Nguyễn Dục, Trần Văn Dư, Huỳnh Thúc Kháng, Dương Thưởng, Dương Thạc… với những kỳ tích lẫy lừng, đã được sử sách lưu danh và người dân khắp nơi mến mộ.
Theo tài liệu của Trung tâm VH-TT H.Phú Ninh ghi lại từ những tư liệu được lưu giữ và theo lời kể của các vị trưởng lão ở Chiên Đàn, vào khoảng năm 1782, cơ nghiệp nhà Trịnh đổ nát, binh biến liên miên, nhân dân khắp nơi oán thán. Lúc bấy giờ, Nguyễn Nhạc phái em là Nguyễn Huệ (vua Quang Trung) kéo quân ra đánh đồn Hải Vân, giải phóng đất Thuận Hóa. Khi đi ngang đất Hà Đông, Nguyễn Huệ được người dân ở đây rất ủng hộ và tại đình Chiên Đàn ông đã tập hợp, thành lập một lực lượng nghĩa binh lớn lấy tên gọi là “Tiền cơ Trung Nghĩa”, trong đó chọn ông Kiều Phụng người xã Chiên Đàn phụ trách hải thuyền và phong làm đô đốc; chọn cụ Đống Công Trường làm cai cơ thống lĩnh đạo nghĩa quân Hà Đông. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, từ 1885 – 1887, tiến sĩ Trần Văn Dư lãnh đạo “Nghĩa hội Quảng Nam” đứng lên kêu gọi người dân trong vùng hưởng ứng phong trào Cần Vương. Trong giai đoạn này, dưới sự chỉ huy của các cụ Võ Đức Mậu, Trần Hoán, Võ Bang, Võ Lê, Xã Xước, đình Chiên Đàn cũng được chọn làm nơi tuyển quân, thu nhận lương thực, khí giới trong dân nổi dậy chống quân Pháp và tay sai.
Cũng theo tư liệu của Trung tâm VH-TT H.Phú Ninh, khi phong trào Duy Tân bùng nổ ở Quảng Nam vào năm 1904 – 1908, các cụ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng đã tập hợp hàng ngàn người dân đến đình Chiên Đàn để diễn thuyết, kêu gọi người dân đấu tranh đòi xin xâu, giảm thuế. Cuộc đấu tranh của người dân ở Chiên Đàn cùng với nhân dân khắp vùng Quảng Nam trong phong trào Duy Tân đã tạo nên tiếng vang lớn khắp cả nước lúc bấy giờ. Khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945), đình Chiên Đàn được dùng làm trụ sở của Ủy ban nhân dân lâm thời xã Chiên Đàn…
Từ khi được xây dựng đến nay, trải qua nhiều biến thiên lịch sử, đình Chiên Đàn đã được trùng tu, sửa chữa nhiều lần vào các năm 1932, 1955, 1967, 1972, 1996 và gần đây nhất là năm 2006. Dù vậy, kiến trúc của đình vẫn được giữ gần như nguyên vẹn. Theo ông Nguyễn Văn Hùng, Giám đốc Trung tâm VH-TT H.Phú Ninh, hằng năm, nhân dân cúng đình vào ngày đầu xuân và tổ chức lễ hội linh đình vào ngày rằm tháng 7 âm lịch nhằm giáo dục con cháu đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”, khơi dậy tinh thần yêu nước, vun đắp tình làng nghĩa xóm…
Theo xahoi
Chuyện người đàn bà tên Rách, nuôi 7 con điên với một chồng...
Cuộc sống cơ cực đến nay đã 60 tuổi nhưng bà Rách vẫn chưa một lần được lên chợ tỉnh dù chỉ cách nhà 15 cây số.
Bà Rách cùng 2 trong số những đứa con thiểu năng
Một mình nuôi 7 đứa con điên điên, dại dại cùng ông chồng sau nhiều năm vật vã trong di chứng của chất độc da cam nay đã không còn phân biệt đâu là tiền đâu là giấy. Những đứa con càng lớn càng điên dại, còn mình thì ngày một già đi, nhưng bà Rách đã không cho phép mình được... "rách" trước mọi nghịch cảnh....
Hớt hải tìm con đêm 30 tết
Bà tên Rách. Mai Thị Rách, năm nay vừa bước qua tuổi 60, ngụ ấp Thông Lưu B, thị trấn Châu Hưng, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Gia đình nghèo, cha mẹ đặt cho cái tên Rách để mong sau này bà cố vươn lên thoát khỏi cái cảnh đói rách gia truyền. Thế nhưng mong muốn này xem ra quá xa xỉ. Bởi thời con gái, cô Rách phải bươn chải, đội mưa, đội nắng phụ giúp gia đình. Lớn lên, bà lập gia đình, lại tiếp tục lún vào hố sâu khốn khổ của nghèo túng và bất hạnh.
Năm 1970, kết hôn với anh bộ đội Ngô Văn Dẫu. Đúng một tháng sau ngày cưới, ông Dẫu được điều chuyển công tác ra chiến trường Miền Đông, mãi đến ngày thống nhất đất nước, mới trở về. Những đứa con lần lượt ra đời trong khó khăn, nhưng gia đình lúc nào cũng rộn tiếng cười. Hết vụ mùa, ông đi làm thuê, làm mướn khắp xóm vì vậy gia đình cũng không đến nỗi chật vật. Tuy nhiên, đến những năm 1990, những đứa con của ông bắt đầu có biểu hiện dị thường. Còn ông, cũng bỗng dưng thay đổi, sức khỏe yếu dần, trí nhớ giảm sút.
Ông Ngô Văn Dẫu, không phân biệt đươc tiền, giấy
Đêm 30 Tết Kỷ Sửu, trong lúc mọi người đang chuẩn bị đón giao thừa, bà Rách hớt hải đi tìm con khắp xóm. Thằng Hai (Ngô Văn Hai) đã bỏ nhà ra đi từ sáng đến tối chưa về. Nó đã 36 tuổi, nhưng như một đứa trẻ chạy tung tăng khắp xóm. Trẻ con nào 30 Tết cũng về nhà. Mọi năm thằng Hai cũng vậy. Năm nay thì không. Linh cảm điều chẳng lành khiến bà đi tìm con khắp xóm. Đêm giao thừa hôm đó, thằng Hai chẳng về nhà. Bà đóng cửa "nhốt" 6 đứa con và chồng, rồi cùng hàng xóm đi tìm. Mùng 3 Tết, xác thằng Hai nổi lên cách nhà 300 mét.
Bà có tất cả 7 đứa con, đứa nào cũng tưng tưng, khi tỉnh khi mê như vậy. Bà cứ nghĩ tụi nó bị tâm thần, nhưng nhà quá nghèo nên không có điều kiện chữa trị. Năm 1993, nhân có đoàn bác sĩ tình nguyện về khám, cấp thuốc miễn phí, bà dẫn các con đi khám bệnh, các bác sĩ cho biết: tất cả đều có dấu hiệu nhiễm chất độc màu da cam. Nhận kết quả, bà đổ sụp xuống, rồi ngã ra bất tỉnh...
Gọi tên con theo... hàng xóm
Quản lý mấy đứa con điên điên dại dại và ông chồng chẳng được bình thường, nên khi tôi hỏi tên con, bà... nhăn răng ra cười. " Tôi hổng nhớ tên chúng nó đâu. Chúng nó đều giống nhau cả, nên khó phân biệt lắm". Để cho tôi ghi đúng tên, bà đem sổ hộ khẩu ra. Đó là những cái tên rất bình thường, mộc mạc và tất cả đều có ý nghĩa còn khuôn mặt của đứa nào gắn với tên gì thì bà không biết. Để phân biệt đứa này với đứa khác, bà đành gọi theo đặc điểm nhận dạng mà hàng xóm hay gọi những đứa con của bà. Thật ra bà cũng chẳng cần phân biệt làm gì, bởi chúng nó đều giống nhau là... chẳng hiểu gì cả. Đã mấy chục năm, tối nào bà cũng gọi tất cả vào nhà đóng cửa lại, sáng thức dậy cho chúng nó ăn rồi căn dặn từng đứa một không được đi xa nhà. Được cái các con của bà không phá phách xóm giềng, ai cũng thương.
Khốn cùng đến vậy, mà dường như số phận khốn nạn vẫn chưa chịu buông tha bà Rách khi trao thêm cho bà gồng gánh thêm hai đứa cháu ngoại cũng tưng tưng. Nó là con của chị Ngô Thị Ba. Đây là người con tỉnh táo nhất nhà. Thấy con gái lớn lại có phần tỉnh táo, nên lúc chị Ba đến tuổi "cặp kê" có người đến dạm hỏi, bà chấp nhận ngay. Chồng chị Ba là một anh cũng không bình thường, nhà cách một cánh đồng. Anh bị câm điếc bẩm sinh. Lần lượt hại đứa con của chị ra đời, được 5 tuổi thì nó cũng bệnh như mẹ và các cậu của nó. Anh chồng nuôi không nổi vợ và hai đứa con do mình sinh ra cũng bỏ chị Ba đi biệt xứ.
Hai đứa con của bà Rách đang đòi vợ
Nghe con đòi vợ mà run
Trớ trêu lại dồn dập ập lên đôi vai hao gầy của bà Rách khi 2 thằng con tự nhiên đòi cưới vợ. Thật ra, ai dám ưng? Nhưng khổ nỗi, bản năng của thằng con trai cứ thôi thúc chúng nó. Bà khổ sở kể: "Một hôm đi chơi về, hai thằng con đều hỏi tui vợ là gì. Tui giải thích, nhưng có lẽ tụi nó không hiểu được, nhưng sau đó lại đòi cưới vợ giống như người ta. Thậm chí tụi nó còn đưa ra điều kiện: "Nếu không cưới vợ, sẽ không chịu ăn cơm". Lúc đầu tui tưởng tụi nó nói chơi, nhưng mấy ngày sau nó cứ đòi vợ miết". Chúng nó đã từng dọa " Nếu không cưới vợ sẽ đốt nhà". Bà hoảng quá đành dành dụm tiền mua hai con heo về nuôi nói là sẽ cưới vợ. Lúc này tụi nó mới không còn hăm dọa đốt nhà nữa.
Hàng ngày thấy các hai con trai chăm sóc 2 con heo một cách thái quá mà bà rớt nước mắt. " Tội nghiệp, nghe tui nói nuôi heo để dành cưới vợ tụi nó mừng lắm, không còn đòi vợ nữa. Bây giờ tui chỉ biết làm vậy, để tụi nó qua cơn mê đôi chút tìm lời giải thích cho chúng nó hiểu, chớ không chịu hoặc cấm đoán là tụi nó quậy chịu không thấu".
Dường như số phận của người đàn bà tên Rách không dừng lại ở đó. Cách đây 3 năm, khi đi Bệnh viện Đa khoa Bạc Liêu khám bệnh, bác sĩ phát hiện bà bị bệnh tiểu đường type 2. Bà rưng rung nước mắt: "Căn bệnh của tôi chết nay sống mai. Chỉ tội cho cha con chúng nó. Nếu tôi chết rồi, không biết cha con chúng nó sống ra sao....".
Theo Dantri
Chuyện "dị nhân" dùng mắm để vớt xác người phân hủy Để tiếp cận những thi thể thối rữa, nồng nặc mùi tử khí, gã bôi mắm lên mũi, nhúng đầy luôn cả khẩu trang. Thế là dân làng gắn cho gã biệt danh: Tây "mắm". Một trong những ngôi mộ do tự tay gã chôn cất. Gã bảo, đời gã gắn liền với nghiệp... vớt xác. Âu đó cũng là duyên trời định....