Đinh lăng – Cây thuốc tăng lực
Cây đinh lăng thường được trồng ở các đình chùa, trước sân nhà làm cảnh bởi lẽ có dáng cây, kiểu lá đẹp xum xuê và quanh năm xanh tốt. Ngày xưa, nhân dân thường lấy lá non của cây đinh lăng để ăn gỏi cá nên còn gọi là cây gỏi cá.
Đinh lăng có tên khoa học là Polyscias fruticosa (L…) Harms, cùng họ với cây nhân sâm (sâm Triều Tiên) nổi tiếng (họ Araliaceae). Đinh lăng là một loại cây nhỏ, sống nhiều năm, cao từ 0,8-1,5m, thân nhẵn không có gai và phân nhánh nhiều. Lá kép 3 lần xẻ lông chim, dài 20-40cm. Phiến lá kép có thùy sâu và mép có răng cưa không đều. Vò ra lá có mùi thơm. Cụm hoa là một khối hình chùy ngắn, gồm nhiều tán đơn hợp lại. Mỗi tán mang nhiều hoa nhỏ có cuống ngắn. Hoa 5 cánh trắng hình trứng, dài 2mm có 5 nhị với chỉ nhị ngắn và mảnh, bầu dưới có 2 ô có rìa trắng nhạt. Quả dẹt màu trắng bạc dài 3-4mm, dày 1mm, mang vòi tồn tại.
Khoảng 40-50 năm trở lại đây, nhiều nhà khoa học trên thế giới đã chú ý đến tác dụng tăng lực, bồi bổ cơ thể của nhiều cây cùng họ với cây nhân sâm. Một số cây trong họ này cho những vị thuốc bổ nổi tiếng và được dùng từ lâu đời trong nhân dân ta như nhân sâm, ngũ gia bì, tam thất… Đinh lăng cũng có tác dụng bổ như nhiều cây họ hàng với nó. Ngày xưa vào dịp hội hè thường tổ chức thi đấu vật, trước khi thi đấu các đô vật hay vò lá đinh lăng với nước để uống cho tăng sức dẻo dai, vật lâu không mệt.
Video đang HOT
Bộ phận dùng làm thuốc chủ yếu là rễ, lấy ở những cây trồng từ 3 năm trở lên. Người ta thường đào lấy rễ cây đinh lăng vào mùa thu hay mùa đông vì lúc này hoạt chất tập trung ở rễ và rễ mềm hơn. Rễ đào về đem rửa sạch đất cát, thái nhỏ rồi phơi, hay sấy khô. Cũng có thể tẩm thêm rượu, gừng và sao cho thơm. Ngoài rễ ra, người ta còn dùng cả thân và lá đinh lăng.
Những năm trước đây các nhà khoa học nước ta (Viện Y học quân sự) cũng có nhiều công trình nghiên cứu dùng đinh lăng làm thuốc tăng lực, tăng khả năng lao động cho người có kết quả tốt. Làm thuốc bổ gây ăn ngon miệng, ngủ tốt, tăng cân, giúp cơ thể chóng hồi phục sau khi mổ, ốm nặng.
Đinh lăng dùng khá an toàn. Liều trung bình là 0,25-0,50g một lần, ngày uống 2-3 lần, dùng dưới dạng thuốc bột (sao thơm, tán nhỏ, rây bột mịn), thuốc viên, hoặc rượu thuốc.
Ngoài ra một số nghiên cứu còn cho thấy đinh lăng có tác dụng an thần và làm tăng tác dụng của thuốc chống sốt rét. Trong nhân dân có nơi còn dùng rễ đinh lăng để chữa ho, thông tiểu, thông sữa và chữa kiết lỵ. Hoặc dùng lá đinh lăng giã nát để đắp vết thương. Song cần chú ý phân biệt cây đinh lăng lá nhỏ hay cây gỏi cá nói trên với mấy cây tương tự như: đinh lăng lá tròn, đinh lăng trổ… tác dụng tăng lực yếu, không bổ.
Theo SKDS
Không tự ý tăng liều thuốc bổ
Trong đơn thuốc ghi cho bệnh nhân, ngoài các vị thuốc có tác dụng chữa bệnh bác sĩ còn ghi thêm một số vị thuốc bổ nhằm giúp bệnh nhân chóng hồi phục.
Việc dùng thuốc bổ cần tuân thủ chặt chẽ chứ không được tự ý tăng liều dùng.
Loại thuốc bổ thường dùng là các loại vitamin, viên đạm. Việc bổ sung vitamin chỉ cần khi nhu cầu cơ thể tăng cao, thức ăn hằng ngày không cung cấp đủ, rối loạn hấp thu vitamin từ ruột, nguồn dinh dưỡng không đảm bảo yêu cầu, vitamin còn dùng kết hợp để làm giảm tác dụng phụ của thuốc (điều trị lao bằng Rimifon bao giờ cũng kèm theo vitamin B6).
Do đó, cần tránh lạm dụng dùng vitamin như thuốc tăng lực trong mọi trường hợp. Các hiện tượng thừa vitamin rất khó phát hiện. Nhiều nước đã xây dựng bảng nhu cầu hằng ngày của một số vitamin thông dụng (Recommended Daily Allowance, viết tắt là RDA).
Việc dùng thuốc bổ cần tuân thủ chặt chẽ chứ không được tự ý tăng liều dùng.
Đối với người bình thường có chế độ dinh dưỡng hợp lý thì việc bổ sung vitamin từ nguồn dinh dưỡng là vừa đủ. Khi có nhu cầu tăng thường bổ sung lượng vitamin từ 3 - 10 lần RDA. Nếu bổ sung quá 10 lần RDA có thể gây tác hại cho sức khoẻ. Khi dùng vitamin ta cần lưu ý:
- Với các loại vitamin tan trong dầu (vitamin A, D, E, K): Cần có chế độ ăn nhiều chất béo và có sự nhũ hóa của mật. Do bài xuất ít theo nước tiểu, nếu dùng liều cao, vitamin tích lũy dễ gây ngộ độc.
- Vitamin tan trong nước: Dự trữ hạn chế, nên cần bổ sung hằng ngày, độc tính tương đối thấp, nhưng nếu dùng lượng lớn dài ngày vẫn có thể gây ngộ độc.
- Chú ý các dạng bào chế và hàm lượng từng loại vitamin: Có loại dùng riêng, có loại dùng phối hợp như Polyvitamin. Dùng loại phối hợp có ưu điểm dùng cùng một lúc nhiều loại vitamin có hiệu quả nhanh, nhưng có trường hợp không cần thiết vì có thể gây thừa vitamin.
- Đường dùng thuốc rất quan trọng. Cần chọn thuốc phù hợp với bệnh lý và từng bệnh nhân. Bệnh nhân bị cắt dạ dày phải chọn vitamin B12 dạng tiêm vì lúc này thuốc uống không tác dụng.
Các bệnh ngoài da, bệnh mắt dùng các loại thuốc bôi và nhỏ tại chỗ sẽ có tác dụng nhiều hơn. Tuy không phải là thuốc kê đơn nhưng khi dùng phải rất thận trọng để việc dùng thuốc được an toàn và hợp lý.
Theo DS Hải Dương
Bee
Sả - cây thuốc của mọi nhà Các bộ phận của cây như thân, lá và rễ của cây sả đều có thể dùng làm thuốc để chữa các bệnh về nội, ngoại khoa. Ngoài ra, sả còn được sử dụng trong công nghệ chế biến chất thơm của mỹ phẩm. Sả là loại cây sống lâu năm, mọc thành bụi cao 0,8-1,5 m. Ở vùng đất có độ ẩm...