Điện Biên: Ánh sáng vào đến bàn học ở Huổi Chỏn, Pú Tủ
70 năm kể từ khi “đặt bản, dựng mường”, Huổi Chỏn, Pú Tủ, Thổ Lộ… vẫn quanh năm “tăm tối”, đói nghèo.
Tết độc lập năm nay điện về đến bản, ánh sáng vào đến bàn học của trẻ thơ.
Học sinh ở các điểm bản lẻ từng học trong những lớp tối tăm, thiếu ánh sáng.
Nhớ thời “tăm tối”
Nằm cách trung tâm huyện lỵ Mường Ảng (Điện Biên) chưa đầy 4km dọc theo tuyến Quốc lộ 279 về phía Hà Nội, xã Ẳng Tở được đánh giá là có nhiều điều kiện thuận lợi hơn các địa phương khác trên địa bàn. Thế nhưng, mấy ai lại biết được rằng, đời sống của không ít người dân các bản ở nơi đây còn muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Vất vả hơn cả có lẽ là khu vực đồng bào Mông sinh sống, bởi họ thường chọn các sườn núi cao chót vót để dựng nhà, lập bản. Cuộc sống hầu như tách biệt khỏi cộng đồng.
Xã Ẳng Tở có 14 bản. Trong đó, 4 bản vùng cao của xã gồm: Huổi Chỏn, Pú Tủ, Thổ Lộ 1, 2 là nơi khó khăn nhất. Hầu hết các gia đình ở đó đều thuộc diện hộ nghèo. Những người cao tuổi ở đây kể rằng, suốt gần 70 năm kể từ lúc lập bản đến bây giờ, bà con chưa từng biết đến ánh đèn điện vào buổi tối ra sao bởi điện lưới quốc gia chưa “vươn” tới.
Ông Lường Văn Thoạn – Chủ tịch UBND xã Ẳng Tở là người con của địa phương này. Vì thế, ông hiểu rõ cuộc sống của bà con, của thế hệ cha, ông mình ngày trước.
“Người dân sống phụ thuộc vào đồi nương, mang tính tự cung tự cấp là chủ yếu. Xưa nay, mọi người đều dùng đèn dầu là chính. Gần đây, nhà nào sang hơn một chút thì dùng điện nước, có điều kiện nữa thì mua bảng tích điện từ năng lượng Mặt trời, ắc quy về dùng. Tuy nhiên, cũng chỉ thắp được 1 bóng nhỏ sáng mờ mờ. Tivi, tủ lạnh, nồi cơm điện… tất cả đều là những thứ còn quá xa vời đối với người dân nơi đây”, ông Thoạn nói.
Video đang HOT
Không có điện, việc học tập của trẻ vùng cao cũng bị ảnh hưởng nhiều. Thế nên, không ít gia đình chỉ cho con đi học mầm non, tiểu học. Có nhà cố gắng lắm thì hết THCS rồi về bản dựng vợ, gả chồng. Hãn hữu lắm mới có gia đình gửi con ra trung tâm huyện để học tại các trường nội trú.
Cô Trần Thị Thu – Hiệu trưởng Trường PTDTBT Tiểu học Ẳng Tở – chia sẻ: “Các thầy, cô giáo được phân giảng dạy tại điểm trường ở bản vùng cao như Huổi Chỏn rất vất vả vì không có điện. Bình thường, để tìm kiếm bài giảng và tài liệu bài tập cho học sinh, thầy cô phải về nhà in ra rồi mang lên lớp. Chưa kể đến những ngày mưa hoặc mùa đông, các lớp học rất tối cho dù đang là ban ngày”.
Không có tivi để xem, đời sống tinh thần người dân bị hạn chế. Cũng vì thế, họ không nắm bắt được các thông tin thời sự, không cập nhật được các kiến thức khoa học để áp dụng vào sản xuất. Cũng vì lẽ đó mà suốt bao đời nay, người dân vùng cao nơi đây vẫn cứ quẩn quanh với đói, nghèo và lạc hậu.
Công nhân ngành Điện lực hỗ trợ người dân lắp đặt bóng đèn.
Niềm vui nhân đôi…
Giai đoạn 2014 – 2020, tỉnh Điện Biên triển khai dự án cấp điện nông thôn từ lưới điện quốc gia. Công trình với quy mô xây dựng mới 5,156 km đường dây 35kV; 4 trạm biến áp 35/0,4kV với tổng công suất 163 kVA. Ngoài ra còn lắp đặt thêm hơn 3 km đường dây 0,4kV.
Sau thời gian triển khai, ngày 30/8, Điện lực thành phố Điện Biên Phủ đã tổ chức đóng điện thành công, chính thức cấp điện cho 159 hộ dân tại 4 bản vùng cao thuộc xã Ẳng Tở.
Như vậy, điện đã không còn trong giấc mơ của đồng bào nghèo nơi đây nữa, mà nó đã trở thành hiện thực. Niềm vui của bà con trong Tết Độc lập vừa rồi như được nhân lên gấp bội.
“Trước đây, phải chờ Mặt trời lên cao vượt khỏi đỉnh đồi, bản làng sáng tỏ mặt người thì mới vào bếp làm những công việc đầu tiên của ngày mới. Nhưng nay, nhờ nguồn điện thắp sáng nên tôi có thể vào bếp sớm hơn cả tiếng đồng hồ để chuẩn bị bữa sáng cho gia đình”, bà Giàng Thị Mến, bản Thổ Lộ 1 chia sẻ.
Khi nguồn điện hiện hữu ở 4 bản vùng cao, con em đồng bào là người vui sướng chẳng kém. Em Giàng A Súa, học sinh điểm trường Huổi Chỏn (Trường Tiểu học Ẳng Tở), cho biết: “Khi bản chưa có điện, muốn học bài em phải dùng đèn dầu hoặc nến. Nhưng mỗi khi gió thổi qua là lại bị tắt. Nhiều lúc em bị cay mắt. Bây giờ có điện rồi, việc học tập của em và các bạn trong bản sẽ thuận lợi hơn. Bọn em có thể học vào buổi tối. Lúc học bài xong có thể đi xem tivi”.
“Trước đây, nhiều người không biết xem tivi là gì. Bà con thiếu thông tin lắm! Từ ngày có điện lưới quốc gia về bản, bà con nơi đây ai cũng vui sướng. Nhà nào cũng có ít nhất 1 bóng điện thắp sáng để phục vụ sinh hoạt và sản xuất”, ông Lường Văn Thoạn nói.
“Như vậy, đến nay toàn xã đã có 13/14 bản có điện lưới quốc gia. Xã có 5 bản vùng cao, hiện còn duy nhất bản Huổi Háo là chưa có điện. Ở đây cũng đa số là hộ nghèo, sống rải rác ở các đỉnh núi cao. Vì thế, chúng tôi cũng mong rằng người dân ở đây cũng sẽ sớm được sử dụng điện, sớm được hưởng thụ cuộc sống văn minh”, ông Thoạn nói thêm.
Có điện lưới quốc gia, khi trời tối các bản cũng vui hơn, rộn ràng hơn. Khép lại công việc hàng ngày, người dân trong bản lại í ới rủ nhau đến những gia đình có tivi để cùng xem. Từ đó, tình đoàn kết bản làng càng thêm thắt chặt. “Ánh sáng” của Đảng không những làm thay đổi đời sống tinh thần của người dân vùng cao, mà còn mở ra hy vọng về một cuộc sống tiến bộ, văn minh. Qua đó, giúp bà con dần tiếp cận với khoa học, kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất. Từ đó, xóa đi cái đói, cái nghèo đã từng “đeo bám” bao thế thế hệ người dân nơi đây.
Người dân vùng cao Điện Biên phát triển cây bí xanh theo hướng hàng hóa
Tại xã vùng cao Tìa Dình, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên, những năm gần đây, người dân đã mạnh dạn chuyển đổi từ đất trồng ngô, sắn, lúa nương sang trồng cây bí xanh mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Người dân bản Chua Ta A, xã Tìa Dình (huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên) thu hoạch bí xanh.
Nhờ chú trọng phát triển theo hướng hàng hóa, sản phẩm bí xanh Tìa Dình hiện nay đã được công nhận là sản phẩm OCOP 3 sao, trở thành cây trồng chủ lực của xã Tìa Dình nói riêng cũng như huyện Điện Biên Đông nói chung trong xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế của địa phương.
Trên những sườn đồi ở bản Chua Ta A, xã Tìa Dình, huyện Điện Biên Đông nay đã không còn sự xuất hiện nhiều của cây ngô, cây sắn hay lúa nương, thay vào đó là một màu xanh mới của cây bí xen lẫn nhiều loại cây trồng khác.
Bí ở Tìa Dình không được trồng thành vườn bởi phụ thuộc vào địa hình chủ yếu là đồi núi nên người dân trồng rải rác ở khắp các sườn đồi, nơi mà trước đây chủ yếu được trồng ngô, sắn, lúa nương. Cũng do địa hình và phong tục tập quán của người dân vùng cao nên cây bí ở đây cũng không được trồng thành giàn mà để cho cây bò lan tự nhiên dưới mặt đất, xen canh với nhiều loại cây trồng khác. Thời điểm này đang vào giữa tháng 9, người dân Tìa Dình cũng bắt đầu vào vụ thu hoạch bí.
Theo ông Tráng A Lầu, Phó Chủ tịch UBND xã Tìa Dình, bí xanh là loại cây được trồng tại xã từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, trước đây người dân chủ yếu trồng tự phát, manh mún, phục vụ nhu cầu gia đình là chính nên năng suất, sản lượng thấp. Từ năm 2018, được sự quan tâm của chính quyền huyện Điện Biên Đông, xã Tìa Dình đã chú trọng phát triển cây bí theo Chương trình "Mỗi xã một sản phẩm". Chính quyền xã Tìa Dình đã cùng với ngành nông nghiệp huyện Điện Biên Đông vận động bà con mở rộng diện tích, phát triển cây bí xanh theo hướng hàng hóa.
Đến nay, toàn xã Tìa Dình có hơn 80 ha diện tích trồng bí với hơn 100 hộ dân trên địa bàn 5 thôn, bản tham gia, chủ yếu là bà con người dân tộc Mông. Thực tế cho thấy nếu so sánh với các loại cây trồng khác như ngô, lúa nương, sắn... trên cùng một đơn vị diện tích thì bí xanh mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần. Giống bí xanh Tìa Dình là loại bị ruột đặc, quả chắc và rất thơm, dễ bảo quản, phù hợp vận chuyển xa nên rất thuận lợi với bà con.
Anh Giàng A Xìa, bản Chua Ta A, xã Tìa Dình, cho biết: Cây bí xanh được người dân trồng trên nương. Bà con chỉ phải phát nương, làm cỏ khi bắt đầu mùa vụ, còn lại để cho cây bí phát triển tự nhiên, không tốn công chăm sóc. Sau khi thu hoạch, quả bí xanh được người dân bán trực tiếp tại vườn cho hợp tác xã từ 7.000-8.000 đồng/kg. Với hơn 1.000 m2 đất trồng bí được chuyển đổi từ trồng ngô trước đây do không có đầu ra, gia đình anh Giàng A Xìa thu về hơn 8 triệu đồng, hiệu quả hơn nhiều so trước đây.
Sản phẩm bí xanh tại xã Tìa Dình, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên.
ể phát triển sản phẩm bí xanh và hỗ trợ đầu ra cho người dân, chính quyền địa phương đã tạo điều kiện thành lập Hợp tác xã Tìa Dình để xây dựng liên kết chuỗi với sự tham gia của nhiều hộ dân.
Ông Giàng A Sử, Giám đốc Hợp tác xã Tìa Dình, xã Tìa Dình, cho biết: Hợp tác xã Tìa Dình đã cùng chính quyền địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các thành viên và người dân đầu tư chăm sóc, mở rộng diện tích trồng và quan tâm đến các khâu từ thu hoạch, bảo quản sao để đảm bảo chất lượng khi đưa ra thị trường tiêu thụ. Đặc biệt, hợp tác xã đã tăng cường liên hệ với các đơn vị, doanh nghiệp tìm đầu ra tiêu thụ ổn định cho sản phẩm bí xanh, không để người dân rơi vào tình trạng không có đầu ra.
Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Điện Biên Đông, năm 2020 diện tích trồng bí xanh của xã Tìa Dình là 22 ha, năng suất đạt 2,5 tấn/ha, sản lượng 55 tấn quả. Đến năm 2021, xã đã mở rộng diện tích lên hơn 80 ha với sản lượng ước đạt hơn 200 tấn quả.
Ông Nguyễn Thanh Lâm, Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Điện Biên Đông, cho biết: Đối với cây trồng trên nương, đặc biệt là cây trồng trên đất dốc, những năm qua ngành nông nghiệp huyện Điện Biên Đông đã xây dựng một số sản phẩm cây đặc sản của địa phương như: cây bí xanh của xã Tìa Dình, lạc đỏ ở xã Na Son và khoai sọ ở xã Phì Nhừ.
Những sản phẩm này hiện đã được tỉnh Điện Biên công nhận là sản phẩm OCOP 3 sao, trở thành những sản phẩm nông nghiệp chủ lực của địa phương. Chính quyền huyện Điện Biên Đông, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng như các xã cũng đã tích cực kết nối một số đơn vị, doanh nghiệp để ký kết hợp đồng, bao tiêu sản phẩm cho bà con.
Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp huyện cũng đã đưa các sản phẩm OCOP của địa phương tham gia triển lãm tại các hội chợ trong và ngoài tỉnh với mục tiêu là các sản phẩm OCOP của Điện Biên Đông không chỉ có chỗ đứng vững chắc trên thị trường nội tỉnh mà còn xuất bán đi các tỉnh, thành.
Mất việc phải ngủ gầm cầu, những mảnh đời lao động không còn chốn dung thân Mất việc trong thời gian giãn cách, chủ thầu bỏ trốn không trả tiền lương, nhiều lao động tự do không còn chỗ tá túc phải lang thang ra gầm cầu để sống qua ngày. 23h, ngồi bên gầm cầu Nguyễn Chánh (Hà Nội), dưới cơn mưa nặng hạt, anh Nguyễn Văn Tục (lao động tự do, quê Điện Biên) đang với nhìn...