Đi tìm những bài võ uy chấn thiên hạ của các danh tướng xưa Kỳ 1
Trong suốt chiều dài lịch sử chống giặc ngoại xâm, nhiều bài võ uy chấn thiên hạ gắn liền với tên tuổi của các danh tướng lừng lẫy đã khiến quân giặc “kinh hồn bạt vía”.
Trong loạt bài viết này, xin trân trọng giới thiệu tới độc giả một số bài võ của một số danh tướng mà PV có dịp được tiếp xúc với truyền nhân hoặc các tư liệu liên quan.
Lật mở bí ẩn về bộ võ thư đầu tiên ghi chép các bài võ của nhiều danh tướng
Vì nhiều lý do khác nhau nên đến nay các cuốn sách ghi chép về các bài võ của các danh tướng xưa còn lại không nhiều. Một trong những cuốn sách hiếm hoi ấy là Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp (tạm dịch là Sao chép binh thư võ thuật của những vị tướng qua nhiều đời khác nhau). Và đến nay những bí ẩn trong cuốn sách này vẫn đang được giải mã từng ngày.
Truyền kỳ về cuốn võ thư đầu tiên
Theo đó, vào thời Hậu Lê, tại kinh thành Thăng Long có một nhà sư rất am tường và giỏi võ nghệ. Ông bỏ công sức suốt một thời gian rất dài để lặn lội, sưu tập binh thư, võ thuật của các danh tướng. Bằng sự am tường võ thuật của mình, cộng với những gì sưu tầm được, ông soạn ra pho bí kíp Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp. Sau khi hoàn tất pho sách về võ thuật của các danh tướng này, lo sợ bị thất truyền, ông lập ra môn phái Long Hổ không hồng.
Với ý nghĩa rằng, Long và Hổ tượng trưng cho sự “uy”, “mãnh”, còn không hồng tượng trưng cho ánh mặt trời. Theo môn quy thì môn phái này mỗi đời chỉ nhận và truyền dạy cho một đệ tử. Và tên hiệu của mỗi đệ tử đều phải bắt đầu từ chữ “Hư”. Nhà sư sáng lập ra môn phái này có tên hiệu là Hư Minh.
Ông Nguyễn Đông Hải.
Trải qua thăng trầm của lịch sử, chiến tranh loạn lạc thời Trịnh – Nguyễn khiến đệ tử của phái Long Hổ không hồng đi dần xuống phương Nam. Vào thời Tây Sơn thì môn phái này đã được truyền đến đời thứ 8 cho một người tên là Nguyễn Trung, hiệu là Hư Linh Ẩn.
Sau khi vua Gia Long lên ngôi thì bộ sách Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp này bị hủy diệt như nhiều bộ sách võ khác ở đất Bình Định. Và cũng kể từ đó, bộ sách này chỉ được truyền lại bằng trí nhớ qua các đời đệ tử chân truyền phái Long Hổ không hồng.
Tính đến Thượng tọa Thích Tịnh Quang, hiệu là Hư Linh Thông mất năm 1990 là đời thứ 12. Và đời thứ 13 là Vạn Hạnh, hiệu là Hư Linh Tử.
Video đang HOT
Truyền nhân Hư Linh Tử tên thật là Nguyễn Đông Hải, tuổi mới ngoài 40, sinh ở xã Nhơn Hòa, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Năm 12 tuổi, Nguyễn Đông Hải đã xuất gia vào chốn cửa thiền. Sư thầy Thích Tịnh Quang lúc ấy chỉ có vỏn vẹn 2 đệ tử là Vạn Lạc, hiện trụ trì chùa Lộc Sơn. Người thứ 2 là Vạn Thanh – Nguyễn Đông Hải.
Sau 4 năm chuyên tâm học kinh kệ, một đêm nọ Vạn Thanh được sư phụ gọi riêng ra bảo: “Thầy thấy con có tư chất, tính tình điềm đạm, có thể học võ được. Nhưng điều quan trọng là con có thích học không?”. Vạn Thanh đáp: “ược thầy thương, truyền dạy con rất thích ạ!”.
Thế là lúc nửa đêm, khi gà gáy, một thầy một trò huỳnh huỵch luyện thập bát ban. Xen giữa những buổi thị phạm, là những bài học khẩu quyết bằng tiếng Hán cổ, là những lần thầy cầm tay trò tô theo từng nét bút những chữ Hán loằng ngoằng, là những câu chuyện kể về lai lịch của Lục tướng tằng vương… lẫn xuất xứ của môn phái Long Hổ không hồng.
Vẫn chưa giải mã hết những bí ẩn
Có sách quý, lại được thầy chỉ bày tận tụy, sư Vạn Thanh dốc lòng học tập, nghiền ngẫm. Dù chỉ được truyền lại theo khẩu quyết, nhưng Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp cũng được Hư Linh Tử ghi lại gần 150 bài. Tuy nhiên, để nắm được hết lẽ huyền diệu của pho bí kíp này, anh biết cái mình còn thiếu là vốn chữ Hán cổ còn yếu, sở học về triết lý phương ông còn non.
Thế là năm 26 tuổi, Hư Linh Tử một mình một tay nải vào Sài Gòn tìm học ở khoa ông – Nam Á các Trường Đại học Sư phạm. Sau hơn bốn năm đèn sách Hư Linh Tử đã dần dần lĩnh hội được Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp. Sau đó, Hư Linh Tử cũng mới thấu hiểu mỗi bài võ trong Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp đều có hai mục đích: chiến đấu và rèn sức khỏe.
Pho bí kíp Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp.
Năm 1997 tròn 30 tuổi, Vạn Thanh – Hư Linh Tử hết duyên với cửa Phật. Anh hạ sơn và từ đây trở thành võ sư Nguyễn ông Hải – Hư Linh Tử. “Thật đáng tiếc là quý thầy Tịnh Quang, Hạnh Hòa cũng như mình đều không rõ sư Hư Minh – tác giả của bộ võ thư này. Chỉ biết ngài sinh năm 1534 tại miền Bắc, vào Nam tu luyện rồi khởi viết sách này vào năm 1561, đến năm 1590 thì mất” – ông Đông Hải giải thích.
Càng đáng tiếc hơn, vẫn theo lời ông Đông Hải, đến nay ông vẫn chưa có điều kiện dịch hết được bộ võ thư mà mình may mắn có được. Theo ông, dịch bộ sách võ cổ này phần nào giống như là việc “giải mã” một thư tịch hiểm hóc vì cách viết về binh thư, võ thuật của người xưa rất cô đọng, phải tốn nhiều thời gian nghiền ngẫm.
Bằng những tin tức đã “giải mã” được, ông Đông Hải khẳng định rằng, bộ cổ thư vềvõ học này ghi chép phép dùng binh (binh pháp) cũng như các chiêu pháp, đòn thế (võ thuật) của các vị vua, vị tướng nước ta kể từ thời Đinh Tiên Hoàng đến thời Lê Lợi, trong đó có các vị danh tướng như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão…
Phần binh thư của cuốn sách rất đáng quý, nhưng theo ông Đông Hải và thượng tọa Hạnh Hòa, phần võ thuật của bộ cổ thư này có ý nghĩa rất thiết thực. Đây là những bài bản chứa đựng những chiêu thức võ thuật của các vị võ tướng vốn được rút ra từ tinh hoa võ thuật của dân tộc.
“Ngoài các mục binh thư mưu lược, binh thư đồ trận, mục thiết thực với việc học võ thuật của mình là mục binh thư thao lược trong bộ sách này. Nó dạy cho mình các thao mẫu.
Tất cả đều có thứ bậc từ thấp lên cao, thao trên triệt tiêu (đoạn) thao dưới. Như “nguyên sinh thao” – thao thấp nhất – bị phá bởi thao kế trên là “cương sinh thao”, nhưng thao này lại bị phá bởi thao kề trên là “ngạnh sinh thao”, cứ thế thao trên lần lượt phá thao kề dưới, đến thao cao nhất là “tam sinh thao”.
Hay như trong bài đại đao của Lý Thường Kiệt cũng vậy, cứ tuần tự cái trên sẽ triệt phá (đoạn) cái dưới kề: Thời đao đoạn kiếm/kiếm đoạn thương thần/trùng binh đoạn pháp/pháp đoạn hùng binh…”, ông Đông Hải sơ lược.
Với khoảng 300 bài gốc cho những thao mẫu, chiêu pháp về võ thuật trong bộ sách này, theo ông Đông Hải, nếu có điều kiện biên dịch – nghiên cứu để ứng dụng, bộ võ thư cổ này sẽ góp vào như là một giáo trình võ thuật lớn làm phong phú và nổi bật hơn cho nền võ cổ truyền VN nói chung và võ Bình Định nói riêng.
“Cái hay của phần võ thuật trong bộ sách cổ này thì đã thấy. Chỉ một số thao mẫu, những chiêu pháp mới được đưa vào dạy cho võ sinh ở sân võ của chùa, nhưng đã thu được những kết quả đáng nói”, ông Đông Hải khẳng định.
Người lưu giữ bộ sách quý về Tây Sơn Tam kiệt Ngoài Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp, thiền sư Tịnh Quang còn truyền lại cho ông Đông Hải – bộ Tây Sơn danh tướng bí kíp mộ hồn thao. Đây là tác phẩm của ông Nguyễn Trung Như – một tướng Tây Sơn người làng An Thái, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Bộ sách ghi lại những chiêu pháp, thao lược đặc biệt của Tây Sơn tam kiệt cũng như của các danh tướng Tây Sơn như Vũ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, đô đốc Lộc, Bùi Thị Xuân… và của cả tác giả Nguyễn Trung Như. Cũng như với bộ Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp, thời còn là sư tăng ở chùa Long Phước, ông Đông Hải đã dịch và đưa vào dạy cho nhiều lớp võ sinh một số chiêu pháp, thao mẫu trong Tây Sơn danh tướng bí kíp mộ hồn thao.
Phóng sự của L.Đại – K.Anh
Theo_Người Đưa Tin
Trung Quốc liên tục tăng cường tàu hải cảnh siêu lớn xuống biển Đông
Kê tư khi ngang nhiên ha đăt trai phep gian khoan phi phap Hai Dương 981 tai khu vưc quân đao Hoang Sa, năm sâu trong vung đăc quyên kinh tê cua Viêt Nam, Trung Quôc liên tiêp ha thuy va biên chê cac loai tau cơ lơn cho lưc lương đôn tru cua minh tai khu vưc biên Đông.
Ngay 20-06, tơ Thơi bao Hoan Câu cua Trung Quôc đưa tin, tau châp phap trên biên cơ lơn lơp 3.000 tân do nươc nay tư đong mơi mang sô hiêu "3306", sau khi tiên hanh thư nghiêm thanh công, đa chinh thưc biên chê cho lưc lương Hai canh Nam Hai.
Đươc biêt, theo quy đinh của Trung Quôc, tau Hai Canh nươc nay dung sô hiêu 4 và 5 chư sô. Trong đo, vi tri sô thư nhât hoăc vi tri sô thư nhât và thư 2 biêu thi khu vưc biên mà nó đảm nhiệm.
Hai Canh 3306 neo đậu cạnh Hải Cảnh 1306 cũng thuộc lơp 3.000 tân, của Tổng đội Bắc Hải
Trong trường hợp tàu Hải cảnh 4 số, nếu vị trí thứ nhất là sô 1 thì nó thuộc khu vưc biên Băc Hai, sô 2 - Đông Hai va sô 3 la Nam Hai - tưc biên Đông; vị trí thứ 2 chỉ lượng giãn nước (ví dụ vị trí thứ 2 là 3 thì tàu có lượng giãn nước từ 3-4.000 tấn), 2 vị trí cuối chính là số hiệu tàu.
Đối với các tàu Hải cảnh 5 số, 2 vị trí đầu tiên là sô hiêu cua chi đôi Hai canh (ví dụ 44 là chi đội hải cảnh tỉnh Quảng Đông); còn các vị trí sau giống như tàu Hải cảnh 4 số.
Tàu Hải Cảnh 3306 của Tổng đội Nam Hải thuộc lớp 3.000 tấn
Chiêc tau Hai canh nay mang sô hiêu "3306", co nghia đây là tàu Hải Cảnh 06, thuôc lơp 3.000 tân, trực thuôc quyên quan ly cua Tông đôi hai canh Nam Hai.
Hai Canh "3306" đươc ha thuy ngay 23-01-2014 tai nha may đong tau Hoang Phô, tinh Quang Đông - Trung Quôc. Tau đươc thiêt kê va đong mơi theo nguyên mâu cua tau Hai Giam 50 lơp 4.000 tân (Tau nay đươc đong mơi va đưa vao sư dung hôi thang 06-2011, đên thang 06-2013 đươc cai trang va hoan đôi thanh tau Hai Canh 2350, thuôc biên chê cua tông đôi hai canh Đông Hai).
Tàu Hải Cảnh 3402 của Tổng đội Nam Hải thuộc lớp 4.000 tấn
Theo thiêt kê, nguyên mâu tau nay co chiêu dai 98m, chiêu rông 15,2m, cao 7,8m, trong tai 3.000 tân (tùy theo số lượng trang thiết bị đi kèm mà lượng giãn nước của nó có thể tăng lên tới 4.000 tấn), tôc đô tôi đa 18 hai ly/h, hanh trinh liên tuc 10.000 hai ly, vơi kha năng tự cung câp 60 ngay đêm, đươc trang bi nhiêu trang thiêt bi tiên tiên.
Tinh đên thơi điêm nay, kê tư sau khi đưa gian khoan Haiyang Shiyou 981 vao biên Đông tac nghiêp (02-05), ngoai tau Hai Canh "3306", Trung Quôc đa tiên hanh biên chê cho lưc lương đôn tru tai đây nhiêu loai tau cơ lơn, ví dụ như tau khu truc tên lưa Type 056 "Lô Châu", tau Hai Canh "3402" lơp 4.000 tân va 2 tau Ngư Chinh lơp 1,000 tân mang số hiệu "45005" va "45013".
Theo ANTD
Hoàng Sa và Trường Sa - Chủ quyền của Việt Nam: Bằng chứng lịch sử và căn cứ pháp lý Từ năm Thái Đức thứ 9 (1786), ngày 14 tháng 2 âm lịch, chính quyền Tây Sơn ra quyết định sai phái Hội đức hầu cai đội Hoàng Sa cưỡi bốn chiếc thuyền câu vượt biển ra thẳng Hoàng Sa cùng các xứ cù lao ngoài biển. Đảo Đá Tây, gồm 3 điểm đảo A, B, C. Ảnh: Thế Duyệt - TTXVN Việc...