Đi tìm chiều cao mơ ước – Kỳ 1: Quyết tâm chịu đau kéo chân cao thêm 5cm
Trước đây, một số người Việt phải qua Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan để kéo dài chân, tăng chiều cao. Gần đây, nhiều trường hợp đã phẫu thuật kéo dài chân thành công ngay ở Việt Nam, biến những giấc mơ “chân dài” thành hiện thực.
Phương Anh tập đi lại không cần khung – Ảnh: LÊ VÂN
Còn các bác sĩ đều nhiều lần khuyên cần cân nhắc thật kỹ.
35 tuổi, cô gái có biệt danh Phương Anh “mini”, “bé lùn” vẫn quyết tâm đi kéo dài chân dù được cảnh báo đang ở độ tuổi dễ bị lão hóa xương, khó lành xương. Thách thức đầu tiên Phương Anh phải vượt qua khi đi kéo chân là… thuyết phục bác sĩ mổ cho mình.
Bác sĩ từ chối ba lần
Từ tháng 9 này, Phương Anh (quận 5, TP.HCM) mới bắt đầu trở lại cuộc sống bình thường mới của chính mình, nhưng không phải vì dịch COVID-19. Cởi mở chia sẻ câu chuyện đi kéo dài chân nhưng Phương Anh vui vẻ kể: “Thực ra khi mình đi làm chân như vậy gia đình phản đối dữ lắm. Hai tháng vừa qua với mình là hành trình đầy những đau đớn mà chỉ có mình và người thân mới thấu hiểu. Chuyện đã rồi, không ai trách móc gì mình”.
Chiều muộn, trong phòng ngủ chừng 20 mét vuông, Phương Anh ráng đi lại quanh phòng như trong suốt gần một tháng qua cô vẫn tập đều đặn mỗi ngày. Cô mới tháo khung được vài tuần và đang tiếp tục trị liệu sau ca phẫu thuật kéo dài chân đáng nhớ trong đời. Hai chân Phương Anh sau gần 3 tháng không hoạt động nhiều đã có dấu hiệu teo nhỏ. Nếu bây giờ cô không tiếp tục tập luyện thì quá trình trị liệu phục hồi sẽ vô cùng khó khăn.
10 năm trước, Phương Anh luôn bị ám ảnh bởi mong muốn được tăng chiều cao bằng cách kéo dài chân. “Hồi năm 2010, mình lọ mọ lên mạng xem người ta làm cách nào kéo chân vì nghe thôi đã thấy sợ rồi. Lúc lên tìm hiểu thì càng sợ hơn vì thấy bảo phải cưa chân, có khi bị què luôn. Thế là bỏ ý định. Rồi sau này lấy chồng, đẻ hai đứa con một lúc, phải lo chăm con nên cũng quên mất. Thi thoảng chỉ lên xem cho vui…” – Phương Anh kể lại.
Nhưng khát khao mạnh mẽ của Phương Anh “mini” lúc đó dường như chỉ tạm ngủ quên. Cô luôn bị ám ảnh bởi chiều cao 1,45m của mình. Trong gia đình Phương Anh có ba chị em thì cô thấp nhất. Cũng vì chiều cao bẩm sinh, Phương Anh chọn đi học làm nail rồi mở tiệm tại nhà. “Mình nghĩ với chiều cao của mình đi xin việc cũng khó. Với lại khi thử đi xin việc vài chỗ, tuy người ta không đến nỗi đánh giá gì nhưng cứ thấy họ nhìn mình hơi lâu một chút là thấy rụt rè hẳn” – Phương Anh nhớ lại.
“Mình vẫn theo dõi và cập nhật quá trình kéo chân mới nhất trên mạng. Trước đây, người ta nói sau khi kéo chân phải nằm một chỗ từ 9 tháng đến 1 năm mình thấy sợ. Còn bây giờ chỉ vài tuần sau mổ là đi lại được nên ước mơ năm xưa lại trỗi dậy. Vậy là mình tìm hiểu và tìm đến một bác sĩ ở Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP.HCM xin được kéo chân” – Phương Anh kể.
“Mình nhớ như in câu đầu tiên bác sĩ nói khi mình đến xin kéo chân: Thôi về đi, đừng kéo chân chỉ vì muốn mặc quần áo đẹp!” – Phương Anh nhớ lại. Mãi tới lần thứ 4, sau ba lần bác sĩ từ chối, Phương Anh vẫn quyết tâm mới được bác sĩ nhận lời mổ.
“Mình nói với bác sĩ là em không chỉ mê làm đẹp đâu, đó là tâm nguyện suốt đời em từ bé tới giờ. Dù đau đến mấy em vẫn làm được” – Phương Anh chia sẻ.
Những người đang trong thời gian kéo chân tại một bệnh viện – Ảnh: NVCC
Đừng kéo chân chỉ vì muốn mặc quần áo đẹp. Bạn chỉ thực sự đẹp khi cảm thấy hài lòng với bản thân mình, chứ không phải vì cái chân dài hay ngắn.
Video đang HOT
Bác sĩ Trần Chí Khôi (khoa chi dưới Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP.HCM)
Như bị liệt nửa người!
Trước đó, Phương Anh đã tính ra Hà Nội làm, nhưng sau tìm hiểu ở TP.HCM cũng có bác sĩ làm nên cô đã tìm đến Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP.HCM để tham vấn.
Vượt qua “tường lửa” là những lời giải thích về cuộc đại phẫu thuật cẳng chân hoặc đùi để kéo dài chân từ bác sĩ, Phương Anh vẫn quyết định thực hiện cuộc mổ. Rồi cuối tháng 6 vừa qua, Phương Anh cùng người giúp việc đến bệnh viện để kéo chân.
“Dù đã thuyết phục chồng là bác sĩ ấy giỏi, chưa từng có ca nào biến chứng, nhưng tôi vẫn sợ ông xã phân vân khi ký vào giấy cam kết trước mổ. Nên tôi cùng người giúp việc vào viện, chỉ đến lúc mổ xong tôi mới cho chồng vào” – Phương Anh kể lại.
Chồng Phương Anh khi chứng kiến vợ sau mổ, hết thuốc tê đã thực sự bị suy sụp. “Tôi không nghĩ là làm đẹp lại đau đến thế. Nhìn vợ đau đến toát mồ hôi và sốt liên tục, tôi vừa giận vừa lo” – chồng Phương Anh nhớ lại.
“Nhưng đó mới chỉ là đoạn đầu của cơn ác mộng mà tôi đã trải qua”, Phương Anh tiếp lời. Sau cuộc mổ đầu tiên, cô cảm giác như bị liệt nửa người. Liên tục trong vài tuần đầu tiên, cô hầu như mất ngủ với những nỗi lo mới.
“Tôi không sợ những biến chứng vì nghĩ bác sĩ rất lành nghề và có nhiều người làm thành công rồi. Nhưng những nỗi lo khác ập đến. Bàn chân sau mổ bị căng cứng, không cử động được. Tôi hầu như phải nằm, ngồi với cùng một tư thế. Các bài tập trị liệu phục hồi thì hầu như không thực hiện được vì tôi quá đau. Mọi sinh hoạt đều phải do hai người chăm sóc, con cái thì gửi cho cha mẹ, không dám gặp con vì sợ tụi nhỏ lo” – Phương Anh nhớ lại.
Lúc này, chồng Phương Anh vừa giận vừa lo lắng nhưng ở bên động viên và giúp cô vượt qua các bài tập trị liệu phục hồi. Đầu tiên chỉ là co duỗi đầu gối, cổ chân, bàn chân… Sau đó là tập đứng với khung, nạng.
“Những bước đi đầu tiên khi cổ chân còn bị cứng đau thấu trời. Mới tháo khung hai tuần đầu, chân mình teo quá như sắp gãy làm mình không dám đứng hay cử động nhiều. Bác sĩ nói cố gắng cho cổ chân đè xuống mặt đất. Còn lúc mới mổ xong bị cứng cổ chân bác sĩ trị liệu phải tới bẻ lại, đau la thấu trời luôn. Khoảng hai tháng sau tháo khung thì bàn chân mới chạm đất được. Đến nay hai tháng mười ngày rồi mới đi được. Có anh kia làm trước mình một tháng mà đến giờ còn chưa đi được” – Phương Anh kể.
“Khi mang khung cố định thì ăn miếng cơm cũng không ngon, ngồi không được, đứng không xong. Nằm lâu thì sợ teo chân, teo mông. Tư thế ngủ không đêm nào thẳng giấc được 2-3 tiếng. Cơn đau làm mình tỉnh giấc. Có khi mệt quá, cái đầu mình muốn ngủ rồi mà cơ thể mình không ngủ được vì quá đau. Lúc đó mình co duỗi chân cũng không được. Muốn vô nhà vệ sinh phải có người khiêng, người khúc trên, người khúc dưới. Ra cũng phải có người rinh. Cảm giác như mình bị liệt nửa người dưới. Ai đó từng nói kéo chân đau lắm. Mình trải qua rồi” – Phương Anh thổ lộ.
“Sau ca mổ, lúc thuốc tê tủy sống hết tác dụng thì cảm giác đau đến trước, nhưng bệnh nhân vẫn bị mất vận động hai chân, thêm nữa do khung cố định ngoài nặng nề làm bệnh nhân không nhấc được đôi chân” – bác sĩ Trần Chí Khôi, Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP.HCM, người đã thực hiện kéo chân ở TP.HCM nhiều năm, lý giải.
“Bây giờ có hối hận không? Nói thiệt thì không hẳn vì mình đã trải qua đau đớn rồi, không lẽ tháo ra, nối ngắn chân lại? Còn nếu chưa làm mà thấm cảnh ấy thì mình sẽ không làm. Bây giờ bác sĩ nói cho kéo giùm luôn mình cũng không kéo nữa” – Phương Anh nói.
Hiện Phương Anh đã hoàn thành cuộc mổ kéo dài chân, cao thêm 5cm. Hai chân cô có khoảng 30 cái sẹo khi lắp khung cố định để kéo xương. Giờ đây, ngay cả việc dự tính ban đầu là mổ xong sẽ đi xóa sẹo Phương Anh cũng chưa dám nghĩ tới. “Nghe dao kéo là thốn tới tim rồi, thôi kệ, từ từ tính…” – Phương Anh chia sẻ.
* Tên nhân vật đã được đổi theo yêu cầu.
Ngay cả với bác sĩ chuyên khoa chỉnh hình, trường hợp của Lê Xuân Giao (TP.HCM) là một thách thức.
Kỳ tới: Hai lần kéo chân dài thêm 13cm
70% bệnh nhân ung thư Việt Nam tử vong, Giám đốc BV K lên tiếng
Theo báo cáo của EIU, 70% bệnh nhân ung thư ở Việt Nam tử vong, song Giám đốc Bệnh viện K cho rằng, con số này chưa phản ánh đầy đủ.
Việt Nam đứng đầu khu vực về tỉ lệ tử vong do ung thư?
Cơ quan nghiên cứu và phân tích toàn cầu (EIU) thuộc tạp chí The Economist vừa công bố báo cáo về khả năng kiểm soát ung thư của 10 quốc gia thuộc châu Á Thái Bình Dương, đăng trên Sáng kiến ung thư thế giới.
Báo cáo chủ yếu dựa trên nguồn dữ liệu của tổ chức nghiên cứu ung thư thế giới (IARC) và một phần do EIU thu thập độc lập.
Bảng tỉ lệ tử vong vì ung thư tại 10 nước theo báo cáo của EIU
10 quốc gia trong báo cáo này được lựa chọn dựa trên quy mô dân số, mức độ phát triển kinh tế và thu nhập. Đại diện cho nhóm các quốc gia có thu nhập cao bao gồm Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc; thu nhập trung bình cao bao gồm Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia và nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp bao gồm Ấn Độ, Indonesia, Phillippines và Việt Nam.
Theo báo cáo EIU, tại Hàn Quốc, Nhật Bản và Thái Lan, ung thư là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, trong khi tại Việt Nam ung thư đứng hàng 2 (chiếm 17,9% các trường hợp tử vong do nguyên nhân bệnh tật.
Về tỉ lệ tử vong ung thư, EIU sử dụng thang điểm M:I (tỉ lệ tử vong/số ca mắc) để đánh giá hiệu quả công tác phòng chống, kiểm soát ung thư.
Theo cách tính này, tỉ lệ tử vong ung thư ở nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình, dao động từ 60-70%, Việt Nam có tỉ lệ tử vong xấp xỉ 70%, nhóm các quốc gia có thu nhập cao dao động từ 30 - 50%, cụ thể Nhật Bản chưa tới 50%, tỉ lệ này tại Hàn Quốc là 35% và tại Úc là 28%.
Tỉ lệ sống thêm 5 năm cũng có sự khác biệt giữa 2 nhóm quốc gia, đơn cử tỉ lệ sống thêm 5 năm ung thư đại tràng ở Hàn Quốc là 71,8% trong khi ở Ấn Độ là 38,9%, với ung thư phổi, tỉ lệ sống tốt sau 5 năm ở Nhật Bản là 33%, nhưng Ấn Độ chỉ có 3,7%. Với ung thư vú, tỉ lệ sống sau 5 năm tại Úc lên tới 89,5%, ở Malaysia là 65%.
Báo cáo nhận định mức độ phát triển, đầu tư nguồn lực, sự vào cuộc, phối hợp của các bộ ban ngành, các cấp có thẩm quyền liên quan chặt chẽ tới hiệu quả hoạt động phòng chống ung thư.
Việt Nam nhiều ung thư ác tính nên tử vong cao
PGS.TS Lê Văn Quảng, Giám đốc Bệnh viện K cho rằng, số liệu gần 70% bệnh nhân ung thư ở Việt Nam tử vong không phải là số chết trên số mắc mới trong 1 năm.
"Năm 2018, Việt Nam có 165.000 ca mắc mới ung thư, 115.000 ca tử vong nhưng số tử vong không phải trên số mắc mới mà là số tích luỹ các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư từ những năm trước đó", PGS Quảng nhấn mạnh.
Tỉ lệ tử vong trong ung thư đánh giá tại một thời điểm không có giá trị so với đánh giá trong một khoảng thời gian dài 3 hay 5 năm.
PGS.TS Lê Văn Quảng, Giám đốc Bệnh viện K
Theo PGS Quảng, tiêu chí chính xác hơn đánh giá năng lực điều trị ung thư là thời gian sống thêm của bệnh nhân kể từ thời điểm chẩn đoán, điều trị.
Ngoài ra nguyên nhân ung thư ở các nước khác nhau dẫn đến cơ cấu, tỉ lệ các loại ung thư cũng khác nhau, đây là yếu tố khiến lệ tử vong ung thư khác biệt giữa các nước, theo như báo cáo của EIU.
Tại Việt Nam, 3 loại ung thư hay gặp nhất là phổi, gan, dạ dày đều là những ung thư tiến triển nhanh, ác tính, tiên lượng xấu, điều trị khó khăn. Ngay các nước tiên tiến, bệnh nhân ung thư gan, phổi, dạ dày nếu phát hiện ở giai đoạn muộn, tỉ lệ điều trị hiệu quả cũng rất thấp.
Trong khi đó tại Úc, 3 ung thư phổ biến nhất trong nghiên cứu là ung thư vú, tiền liệt tuyến, đại trực tràng, đều là những ung thư diễn tiến chậm, tiên lượng tốt, dù có phát hiện ở giai đoạn muộn tại Việt Nam, bệnh nhân cũng có thể sống thêm nhiều năm.
Hay tại Hàn Quốc, 3 ung thư thường gặp nhất là giáp trạng, đại trực tràng và dạ dày, trong đó ung thư tuyến giáp tại Việt Nam gần như chữa khỏi hoàn toàn.
"So sánh chỉ thực sự có giá trị khi cùng một hệ quy chiếu với tỉ lệ cơ cấu các ung thư tương đồng nhau, như vậy mới thể đưa ra so sánh đánh giá chính xác. Ngay tại Úc, Hàn Quốc, ung thư phổi không phải là 1 trong 3 loại ung thư thường gặp nhất, nhưng theo báo cáo, ung thư phổi vẫn chiếm tỉ lệ tử vong cao nhất", PGS Quảng nêu quan điểm.
Theo PGS Quảng, mô hình ung thư có liên quan đến nhiều yếu tố, nhìn chung ở các nước phát triển, phần lớn ung thư liên quan đến lối sống công nghiệp, béo phì, ít vận động trong khi ở các nước đang phát triển thường gặp ung thư liên quan đến nhiễm khuẩn như nhiễm virus HBV gây ung thư gan, HPV gây ung thư cổ tử cung, EBV gây ung thư vòm và vi khuẩn HP gây ung thư dạ dày.
Làm gì để giảm gánh nặng bệnh ung thư?
Dù tự tin rằng các phương tiện chẩn đoán, trang thiết bị, thuốc men... điều trị ung thư đều đã ngang bằng với một số nước song PGS Quảng thừa nhận Việt Nam cần thực hiện đồng bộ, toàn diện và hiệu quả 4 nội dung cơ bản của chiến lược phòng chống ung thư bao gồm phòng bệnh, sàng lọc chẩn đoán sớm, điều trị và chăm sóc giảm nhẹ.
Việt Nam không tách riêng chương trình phòng chống ung thư như nhiều nước mà gộp chung thành chương trình phòng chống các bệnh không lây nhiễm. Ngân sách cho chương trình phòng chống ung thư còn hạn hẹp và bảo hiểm chưa chi trả cho hoạt động sàng lọc, phát hiện sớm ung thư.
Ngành ung thư cũng đã có nhiều nỗ lực giảm nhẹ gánh nặng ung thư trên phạm vi cộng đồng như tập trung đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức về dự phòng ung thư, phát hiện sớm ung thư, triển khai tăng cường khám sàng lọc ung thư ở quy mô rộng hơn, đặc biệt ưu tiên sàng lọc các ung thư thường gặp, có khả năng điều trị hiệu quả và phát hiện bằng các phương tiện có thể tiến hành trên quy mô lớn.
"Về lâu dài, nếu quỹ bảo hiểm y tế chi trả được một phần cho sàng lọc ung thư, đặc biệt nhóm đối tượng có nguy cơ cao, sẽ giúp nhiều hơn người dân tiếp cận được với sàng lọc ung thư", PGS Quảng kỳ vọng.
Với bệnh ung thư, phát hiện càng sớm, tỉ lệ chữa khỏi càng cao, chi phí càng rẻ. Do vậy, mỗi người dân cần duy trì thói quen khám sức khoẻ định kỳ, khi có bất kỳ dấu hiệu nghi ngờ ung thư cần đến các cơ sở y tế chuyên khoa để được thăm khám, phát hiện sớm hoặc loại trừ bệnh ung thư.
Đông Nam Á trước nguy cơ "dịch chồng dịch" Trong bối cảnh hệ thống y tế quá tải vì đại dịch Covid-19, một số quốc gia ở Đông Nam Á, như Singapore, Malaysia và Thái Lan đang chật vật với một dịch bệnh khác: sốt xuất huyết (SXH). "Chúng ta đang chứng kiến sự bùng nổ của số ca nhiễm SXH ở Đông Nam Á. Đây chắc chắn sẽ là một năm...