Đi tìm cao thủ Thiếu Lâm Việt Nam (Kỳ 2) Gặp người Việt từng khổ luyện ở chùa tổ Thiếu Lâm
Gặp người Việt từng khổ luyện ở chùa tổ Thiếu Lâm
Võ sư Hoài biểu diễn đao thuật (Nguồn internet)
Từ hàng chục năm nay, giới võ lâm Việt Nam hâm mộ võ sư Vũ Đăng Hoài không chỉ vì ông là một “cánh chim đầu đàn” của thời phục hưng võ thuật vào những năm 1980 mà người ta còn cảm phục ý chí của ông: Khi mới 22 tuổi, chàng thanh niên Vũ Đăng Hoài đã lặn lội đường trường sang chùa Thiếu Lâm (tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc) tầm sư học võ. Ông cũng là truyền nhân của hai môn phái võ Thiếu Lâm: Thiếu Lâm Bắc Phái và Thiếu Lâm Nam Phái.
Khổ luyện bóp nát gốc tre
Võ sư Vũ Đăng Hoài sinh năm 1956 tại huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Từ nhỏ, ông đã được cha là võ sư Vũ Đăng Thường truyền dạy những tinh hoa võ thuật Thiếu Lâm tự. Ông kể: “Khi tôi mới lên 10 tuổi, để luyện tay, bố tôi ra đầu làng chặt những gốc tre đực rắn chắc nhất đem về phơi khô, tẩm dầu vào thân cây rồi đưa lên gác bếp hong cho khô hẳn. Sau đó, ông chẻ gốc tre làm đôi và bắt tôi hàng ngày phải dùng tay bóp những gốc tre ấy. Những ngày đầu chưa quen, bóp xong, tay đau đến nỗi buổi tối không cầm được bát đũa để ăn cơm. Sau này, khi đã đủ khả năng bóp nát những gốc tre ấy thì cơ, gân tay tôi đã cứng cỏi hơn rất nhiều. Ngày ấy chưa có các học cụ luyện võ như bây giờ, bố tôi phải đi tìm những gốc cây xà cừ lớn chôn xuống đất làm tượng Mộc nhân để chúng tôi luyện tập”.
Trong hồi ức của ông Hoài, việc luyện Thông thiên nhãn cũng là quãng thời gian đáng nhớ. Cứ buổi sáng sớm hoặc buổi hoàng hôn, ông phải nhìn thẳng lên mặt trời. Dần dần khi đã quen, ông có thể nhìn lên mặt trời lúc giữa trưa nắng gắt.
Võ sư Hoài nhớ lại những ngày đầu luyện võ: ” Có khi mùa đông đang nằm đắp chăn trong nhà, bỗng nhiên bố tôi gọi dậy bắt nhảy xuống giếng làng ngâm mình hàng giờ đồng hồ. Có lần ngâm mình dưới nước quá lâu tôi bị cảm lạnh nặng, ốm hàng tháng trời mới khỏi. Thế nhưng qua những lần tôi luyện như vậy, sức mạnh, sức đề kháng của cơ thể mới ngày càng được nâng cao”.
Sang chùa Thiếu Lâm bái sư học võ
Cảm động tình nghĩa con nhà võ Khi nhắc đến các đệ tử đã từng được ông giảng dạy, võ sư Hoài rất đau lòng vì 3 người học trò, những người mà ông đã chọn làm truyền nhân đều bị chết trong một vụ tai nạn giao thông.Con trai của võ sư Hoài kể lại: “Khi nghe tin các học trò bị tai nạn, ông chạy thẳng đến hiện trường, ngồi thẫn thờ khóc. Suốt thời gian 6 năm, ông bị ám ảnh bởi các anh ấy. Cứ mỗi khi đến bữa cơm, ông lại lấy thêm 3 chiếc bát và 3 đôi đũa đặt trên mâm cơm, gọi các học trò về ăn cơm, sư phụ ăn gì thì gắp cho 3 đệ tử cái ấy. Ba anh ấy chính là 3 niềm tâm đắc của bố em. Trong võ thuật, để tìm được một người hợp ý, một truyền nhân còn khó hơn “mò kim đáy bể”.
Năm 1975, người cha, cũng là sư phụ đầu tiên của ông bị bệnh thần kinh tọa không thể tiếp tục giảng được nữa. Võ sư Hoài quyết định sang Trung Quốc tìm đến chùa Thiếu Lâm học võ để về nối nghiệp cha. Ông đến chùa Thiếu Lâm thuộc tỉnh Quảng Đông xin bái sư học võ. Cảm động trước lòng thành của chàng trai trẻ nên vị phương trượng chùa Thiếu Lâm nhận ông làm đệ tử. Sau khi nhập môn, hơn một năm trời ông chỉ có việc gánh hai xô nước từ dưới chân núi lên chùa để lấy nước sinh hoạt và tưới cây là một cách rèn nội công. Khi đã luyện được nội công, ông mới bắt đầu được sư phụ dạy quyền cước.
Sau 6 năm 7 tháng đi xứ người luyện võ, võ sư Hoài quyết định về nước. Ông định mở lò luyện võ nhưng khi bàn luận võ công với cha mình, ông mới thấy được sự mênh mông của võ công Thiếu Lâm. Ông quyết định phải học thêm những bí kíp, tuyệt chiêu Thiếu Lâm mới. Võ sư Hoài được cha gửi đến một võ sư nổi tiếng trong giới võ lâm cũng là người bạn thân tên Nguyễn Văn Tiến (còn gọi là cụ cả Tiền) ở Hà Nội.
Video đang HOT
Cụ cả Tiền muốn ông luyện chí kiên trì, nhẫn nại nên 6 tháng trời không cho luyện võ, bắt võ sư Hoài ngồi se hương để đi bán. Khi đã rèn ý chí cho học trò, cụ cả Tiền bắt đầu truyền dạy võ công cho võ sư Hoài. Ông tập luyện trong võ đường của võ sư Tiền đến khi sư phụ qua đời vào đầu những năm 1980.
Những cuộc tỉ thí không đụng thủ
Dù khả năng võ công cao cường, thế nhưng theo những lời võ sư Hoài tâm sự, người “ngoại đạo” sẽ không ngờ ông lại là một người cực kỳ khiêm tốn: “Có khi người ta đánh mình, chưa biết người ta mạnh yếu ra sao nhưng mình đã phải bỏ chạy”. Ông giải thích: “Tôi theo học võ nhà Phật nên rất tránh việc tỉ thí động chân động tay. Mình học võ, nếu đánh người không may đúng chỗ phạm thì sẽ day dứt, ôm niềm tội lỗi cả đời. Chúng tôi rèn võ để tăng cường sức khỏe, bảo vệ chân lý, chỉ những trường hợp bất khả kháng mới phải động thủ”.
Võ sư Hoài cho biết, đã có rất nhiều cao thủ võ lâm muốn tỉ thí với ông để “phân tài cao thấp”, tuy nhiên, thường thì sau khi uống hết một ấm trà, nói chuyện về võ thuật, những người này đều bỏ ngay ý định đó. “Tôi còn nhớ, một võ sư nổi tiếng người Cao Bằng tên Du lặn lội đường xa đến nhà tôi đòi đấu võ. Sau nửa ngày đàm đạo, võ sư này đã ra về và nói một với tôi một câu: “Tôi với anh không còn gì để tỉ thí nữa”". Hay trong một chuyến đi Lào Cai, ông gặp một môn đồ của võ thuật Vân Nam (Trung Quốc) nổi tiếng “không có đối thủ” ở Lào Cai. Cũng sau khi đàm đạo về võ công, võ sư này cũng không muốn “động thủ” với ông nữa.
Một trong những kỷ niệm đáng nhớ khác của võ sư Hoài là chuyến “Nam du”. Đến TP. Hồ Chí Minh, một võ sư tên Thiệu muốn thử trình độ của võ sư Hoài nên đã đề nghị ông đánh một bài quyền. Ngay lập tức, võ sư Hoài dùng chân móc côn lên tay và đánh bài “Song đầu Triệu gia côn”. Khi đánh xong võ sư Thiệu đã phải thốt lên: “Những người ẩn dật thì tôi chưa biết, nhưng những người mà tôi gặp thì chưa thấy ai đánh một bài côn hoàn hảo như anh”.
Võ sư Hoài trầm tư: “Khi hai người đã học võ, chỉ cần lướt một vài quyền cước, đàm thoại mấy câu về võ thuật, họ có thể hiểu nội công, mức độ thâm hậu về võ thuật của đối thủ như thế nào và biết ngay được mình có thể thắng hay bại”.
Được biết, năm 1982, võ sư Hoài thành lập chi nhánh võ Thiếu Lâm tại Cung văn Hóa hữu nghị Việt – Xô và dạy cho đến ngày nay. Đã có hàng vạn môn sinh theo ông luyện võ và đã có rất nhiều người trở thành võ sư sau đó về các địa phương mở lò dạy võ.
Điều đặc biệt, võ sư Hoài được học bởi hai sư phụ Thiếu Lâm tự nhưng thuộc hai trường phái khác nhau là Thiếu Lâm Bắc Phái (bố ông) và Thiếu Lâm Nam Phái (cụ cả Tiền). Qua thời gian hàng chục năm luyện võ, tinh hoa võ thuật của hai trường phái đã được ông lĩnh hội trọn vẹn.
Ông Hoài cho biết: “Ngày nay, tôi lấy tên chi nhánh Thiếu Lâm của chúng tôi là Thiếu Lâm Liễu Đôi vì cha tôi là theo Bắc Phái, sư phụ Tiền theo Nam Phái. Đó cũng là cách để tưởng nhớ đến hai vị sư phụ có ảnh hưởng lớn nhất trong cuộc đời tôi”. Hiện nay, nhà thờ tôn sư Thiếu Lâm tự của ông đang ở giai đoạn hoàn thành. Ông và cậu con trai út đã bỏ ra 6 năm ròng trực tiếp thiết kế và thực hiện công trình này. “Tôi có thể bỏ tiền ra thuê cũng được, nhưng tôi cảm thấy tự tay làm sẽ phần nào thể hiện được sự tôn trọng đến các vị tôn sư”.
VGT(Theo Báo Mới)
Đi tìm cao thủ Thiếu Lâm Việt Nam (Kỳ 1) Tuyệt chiêu múa quyền trên mặt nước
Khi nhắc tới những võ sư Thiếu lâm, người ta thường nghĩ đó phải là những môn đồ khổ luyện ở các ngôi chùa trên đất Trung Hoa với đầu trọc, áo nâu sòng hoặc vàng cam... ít ai biết rõ phái võ này đã từng được du nhập vào Việt Nam hàng thế kỷ trước, và môn phái Thiếu lâm Việt Nam đã từng sinh ra những bậc kỳ tài. ĐS&PL xin giới thiệu loạt bài về chân dung của một số kỳ nhân trong làng võ Thiếu Lâm Việt Nam. Mỗi cao thủ luôn gắn với một tuyệt chiêu và những câu chuyện hành tẩu giang hồ cam go. Nhưng tất cả họ đều có mong muốn xây dựng một võ phái Thiếu Lâm mang đậm bản sắc Việt Nam.
Nửa thế kỷ trước, khi nhắc đến võ Thiếu lâm tại Việt Nam, giới võ lâm không ai không biết đến võ sư nổi tiếng Vũ Đăng Thường. Những câu chuyện về sự kỳ công rèn luyện võ nghệ, khả năng "bất khả chiến bại" của ông đã trở thành giai thoại li kỳ lưu truyền đến tận ngay nay.
Tuyệt chiêu lướt trên mặt nước
Võ sư Vũ Đăng Thường sinh năm 1898, tại thôn Đại Nghĩa (xã Đồn Xá, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Theo phả hệ, gia đình võ sư Thường là người Trung Quốc, đến Việt Nam từ nhiều đời trước đó. Từ nhỏ, võ sư Thường đã được tiếp thu tinh hoa võ thuật Thiếu lâm từ sư phụ là chính người cha của mình. Tương truyền, cậu bé Thường khi còn nhỏ đã có khả năng thiên phú về võ nghệ, nói theo cách của con nhà võ thì "vừa biết đi đã biết đánh quyền".
Sau khi đã được cha truyền dạy võ công, cậu bé Thường tiếp tục được cha gửi về quê theo học các cao thủ thiếu lâm. Đến những năm 1940, sau hàng chục năm tập luyện, ông đã học được những tuyệt chiêu đỉnh cao của môn phái.
Võ sư Vũ Đăng Hoài, con trai của võ sư Thường kể lại, tên tuổi của võ sư Thường vang danh các võ đài Trung Quốc bắt đầu vào khoảng năm 1940,kể từ sự kiện giới võ lâm Trung Quốc mở một cuộc thi võ thuật để tìm kiếm, tuyển chọn cao thủ. Lúc này, võ sư Thường đã ngoại tứ tuần nhưng vẫn tham gia với mục đích trao đổi kiến thức võ học với các võ sư Trung Quốc. ông quyết định biểu diễn bài "Mai hoa ngũ lộ" trên mặt một hồ nước.
Để thực hiện được tuyệt chiêu này, võ sư Thường đã phải bỏ ra hàng chục năm tập luyện. Cứ mỗi sáng, người dân trong làng lại thấy võ sư Thường trong tư thế dùng một tấm vải đen bịt chặt hai mắt, chạy bộ hàng tiếng đồng hồ trên cọc tre đặt dọc. ông tập luyện nhuần nhuyễn đến nỗi, vừa bịt mắt, vừa đi chuyển, vừa đánh quyền nhưng chân không bao giờ chạm đất.
Tương truyền, khi võ Thiếu Lâm bắt đầu phát triển ở Trung Hoa thì đồng thời cũng được du nhập vào Việt Nam và được phối hợp với võ cổ truyền Việt Nam, sửa đổi cho phù hợp với thể chất của người Việt nhằm sử dụng hữu hiệu, hình thành nên những hệ phái Thiếu Lâm của nước Việt. Sự phát triển của Thiếu Lâm danh gia tại Việt Nam cực thịnh khi những người Hoa qua Việt Nam sinh sống, làm ăn, tạo nên cộng đồng Hoa kiều đông đảo tại Việt Nam. Không để thất truyền tinh hoa của tiên tổ, họ đem võ học của gia tổ ra truyền dạy cho mọi người và phục vụ quê hương mới của họ. Các môn phái Thiếu Lâm danh gia Việt Nam bắt đầu được xây dựng và phát triển từ đó cho đến ngày nay.
Sự chuẩn bị cho màn biểu diễn tại cuộc thi võ thuật tại Trung Quốc năm ấy cũng rất công phu. Đầu tiên ông lên rừng chặt những thân gỗ có đường kính khoảng 15 cm, sau đó đóng cọc xuống lòng hồ sao cho độ cao của cọc gỗ bằng với mặt nước. Đến khi biểu diễn, võ sư Thường nhờ người ném lá tre trên mặt nước trong khi đó ông đang ngồi thiền luyện khí công. Sau 5 phút luyện khí công, bất thình lình ông bật dậy, lao ra giữa hồ. Vì lá tre được thả xuống mặt nước nên người xem cứ tưởng ông đang đạp trên những chiếc lá ấy để bay trên mặt hồ. Thực ra vị võ sư này đang chạy trên những cọc tre ẩn mình dưới mặt nước. ông đánh bài "Mai hoa ngũ lộ" trong sự ngỡ ngàng của các võ sư Trung Quốc.
Với màn biểu diễn đỉnh cao đó, ông đã vượt qua hàng trăm cao thủ võ lâm Trung Hoa để đoạt giải xuất sắc. Được biết sau này, khi ông mất đi, ở Việt Nam, không ai có thể đánh được tuyệt chiêu trong bài "Mai hoa ngũ lộ" hoàn hảo như vậy.
Để đạt đến trình độ võ công thượng thừa này, võ sư Thường phải tuân thủ thời gian biểu luyện tập nghiêm ngặt, khổ luyện trong hàng chục năm trời. Tất cả các đệ tử theo học ông cũng phải kinh qua quãng thời gian khổ luyện như vậy. Con cháu của võ sư kể lại, trước đây ông có một đệ tử tên Lý Trình. Sau khi người này đến nhà võ sư Thường xin học võ Thiếu lâm, người học trò này hơn một năm trời ngày nào cũng phải gánh nước từ giếng đi từ đầu làng đến cuối làng tưới vào những gốc tre. Nhiều người nhìn thấy cảnh tượng đó, nghĩ là hai thầy trò "không bình thường". Tuy nhiên, sau này khi cậu học trò này đã có tên tuổi, người làng Đại Nghĩa mới hiểu được võ thuật Thiếu lâm chân truyền phải luyện chí, luyện gian khổ bằng những bài tập tưởng rằng "không bình thường" như thế.
Vang danh trận quyết đấu bên tử đài
Dù đã hơn nửa thế kỷ trôi qua nhưng nhiều người dân hai tỉnh Nam Định và Hà Nam ngày nay vẫn nhắc đến trận đấu giữa võ sư Thường và một cao thủ Trung Quốc như một giai thoại về võ nghệ cao cường. Theo đó, năm 1956, vợ chồng một võ sư người Trung Quốc dẫn theo hàng chục đệ tử sang huyện ý Yên (Nam Định) mở đài thi đấu võ thuật. Giải thưởng của giải đấu gồm 10 lạng bạc và 2 lạng vàng. Điều kiện của những võ sĩ lên đài thi đấu phải nộp 1 lạng bạc. Rất nhiều cao thủ võ lâm Việt Nam đã đăng kí thượng đài thi đấu. Lúc này, võ sư Thường đang sinh sống tại Hà Nội...
Giải đấu diễn ra một tháng, và cũng chừng đấy thời gian võ sư Trung Quốc "bất khả chiến bại". Nhiều người đã nghĩ đến võ sư Vũ Đăng Thường và quyết định lên Hà Nội khẩn khoản mời ông về Nam Định thi đấu. Bỏ hết công việc, võ sư Thường quyết định về ý Yên để thử tài cao thấp.
Võ sư Vũ Đăng Hoài.
Theo quy định của cuộc thi, mỗi người có thể đăng kí được thi đấu ở 3 đài: Tránh thủ đài là đài thấp nhất. Đả lôi đài là cấp dành cho các võ sĩ tầm trung. Cuối cùng là Tử Đài, nơi mà các võ sĩ đăng ký thi đấu sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm mạng sống. Điều đặc biệt ở chỗ, ở trên Tử đài được đặt sẵn một cỗ quan tài. Sở dĩ có sự sắp xếp đặc biệt này là do vị võ sư người Trung Quốc muốn gây tâm lí lo sợ cho người tham gia.
Võ sư Thường quyết định đăng kí ngay lên thi đấu ở Tử Đài. Biết thanh thế của ông, khác với các trận đấu khác, vị võ sư Trung Quốc không dám cho các đệ tử ra thi đấu mà trực tiếp động thủ.
Vào hiệp thi đấu đầu tiên, võ sư Thường đã lĩnh trọn cú đấm "nặng tựa ngàn cân" của vị võ sư người Hoakhiến cho ông choáng váng và gãy 4 chiếc răng. Nhiều người thấy cảnh tượng đó đã khuyên nhủ ông dừng cuộc đấu nhưng ông không nghe, quyết thượng đài thi đấu đến cùng.
Hiệp 2, thế thượng phong vẫn thuộc về phía võ sư người Trung Quốc. Đến cuối hiệp 3, võ sư Thường quyết định hạ thủ đối phương. ông tấn công dồn dập khiến cho võ sư người Hoa bị rớt đài trong tiếng vỗ tay không ngừng của khán giả.
Được biết, sau khi nhận giải ông tặng toàn bộ giải thưởng cho địa phương để xây dựng cơ sở vật chất.
Năm 1992, võ sư Vũ Đăng Thường mất tại Hà Nam, thọ 94 tuổi. Sau này, người con trai của ông là võ sư Vũ Đăng Hoài đi theo nghiệp võ của cha.
Theo đời sống pháp luật
Đôi tay, ý chí của người đàn ông mù Bất chấp những trở ngại trên bước đường mưu sinh không có ánh sáng, hễ việc gì có thể kiếm ra tiền là Hồng lao vào làm. Mỗi mùa nước nổi về, Hồng chuyển sang làm vó gạt. Một người bạn cùng nghề đã rủ anh hút thử thứ thuốc nâu nâu giúp không biết lạnh khi trầm mình dưới nước... Gió bấc...