Đi dưới những ngọn núi
Với tôi, Hồ Chí Minh là một ngọn núi lớn, cao mà ngay cả những nhà nghiên cứu am tường cũng chưa hiểu hết. Được gặp các nhân chứng, tiếp cận tài liệu để làm phim về Bác, cũng là hành trình khám phá ngọn núi lớn ấy
Theo cha mẹ vào Huế…
Nhà văn Sơn Tùng, được Trời cho cơ duyên biết nhiều chuyện chưa mấy ai biết về Bác Hồ, có lần nói: “Trên thế gian này, có lẽ Bác Hồ là người đi bộ nhiều nhất trong suốt cuộc đời. Từ khi còn nhỏ lên 5 tuổi đã theo cha mẹ vượt đèo Ngang vào Huế. Đến khi sắp từ giã cõi đời, Người vẫn mơ ước được đi bộ vượt Trường Sơn vào với đồng bào miền Nam. Mỗi lần nhớ đến đồng bào, Bác Hồ lại khóc!”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đường đi công tác Đèo Khế, Thái Nguyên sang Tuyên Quang (1947). Ảnh: Tư liệu
Tháng 10.1944, Bác Hồ qua biên giới Việt – Trung, đi bộ về Pác Bó, huyện Hà Quảng, Cao Bằng. Đi từ sáng đến chiều tối về tới Khum Đắc. Các đồng chí được gần Bác ở Cao Bằng kể lại: “Ở Pác Bó, Bác thường hay đi chơi núi. Núi cao là niềm ham mê của Bác. Con đường mòn lên núi nhiều gai góc, dây leo chằng chịt, đá nhọn chắn đường, lau già trổ cờ trắng bạc ngả sang hai bên lấp mất lối. Bác leo tít lên đỉnh núi cao, có khi lại xuống thật sâu dưới thung lũng. Cả người Bác, cả tâm hồn Bác như hòa vào với núi”.
Mùa hè năm 1950, Sơn Tùng được nghe cụ Cả Khiêm – anh ruột Bác Hồ kể: “Quãng năm 1895, hai anh em Bác Hồ, thuở ấy còn mang tên Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung, theo bố mẹ đi bộ từ Nam Đàn vào kinh đô Huế, cứ dọc đường cái quan mà đi, mỗi người mang một đôi dép mo cau, lúc nào rách lại thay đôi khác”.
Quãng đường này, khoảng năm 1833 – 1834, hơn 60 năm trước chuyến đi của gia đình Bác, nhà thơ Cao Bá Quát (1809-1855) đã cuốc bộ vào kinh đi thi. Đường dài vắng vẻ “Úy nộ man man trước lữ hoài” (Mênh mang dặm khách rợn lòng ta). Đường qua những trảng cát dài “Trường sa phục trường sa/Nhất bộ nhất hồi khước/Nhật nhập hành vĩ dĩ/Khách tử lệ giao lạc” (Bãi cát dài lại bãi cát dài!/Đi một bước lại lùi một bước!/Mặt trời đã lặn mà vẫn còn đi/Khách trên đường nước mắt rơi lã chã).
Đến đèo Ngang, đứng trên núi Hoành Sơn nhìn ra bể, Cao tiên sinh kinh hoàng trước cảnh thiên nhiên dữ dội, vội vã lên đường: “Hải thượng bạch ba như bạch đầu/Nộ phong hãm phá vạn hộc châu…/Sơn Bắc, sơn Nam thiên vạn lý/Công danh nhất lộ kỷ nhân nhàn?/Quan cái phân phân ngã hành hỹ!” (Sóng trên mặt bể trắng xóa như đầu bạc/Gió táp xô vỡ chiếc thuyền lớn hàng muôn hộc…/Phía Bắc núi, phía Nam núi, suốt nghìn muôn dặm/Trên đường công danh, đã mấy ai nhàn?/ Mũ lọng nhộn nhịp, ta cũng đi đây!).
Ông Sắc cõng Sinh Cung rảo bước. Bà Loan gồng gánh đồ đoàn, dắt tay Sinh Khiêm cặm cụi theo sau. Chú bé Sinh Cung 5 tuổi được cha cõng trên lưng, thấy Hoành Sơn có con đường mòn đất đỏ vắt qua đẹp quá, reo lên thành thơ: “Núi cõng con đường mòn/Cha thì cõng theo con/Núi nằm ì một chỗ/Cha đi cúi lom khom/Đường bám lì lưng núi/Con tập chạy lon ton/Cha siêng hơn hòn núi/Con đường lười hơn con!”. Bài thơ được cụ Cả Khiêm chép lại trong tập Tất Đạt tự ngôn. Năm 1950, cụ đem cho nhà văn Sơn Tùng vài tháng trước khi cụ mất.
Vượt những núi cao
Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Tuyên Quang (1951). Ảnh: T.L
Video đang HOT
Sau này, khi làm phim về đất nước, tôi nhiều lần đi dọc miền Trung. Phong cảnh khiến tôi mường tượng thấy hình bóng của Bác cắm cúi giữa con đường vượt qua những đỉnh đèo cao. Tháng 7, vào mùa nắng dữ, các bụi tre gai bên đường vào Phan Rang hàng trăm cây số hoang dã, khô cháy một màu chết chóc, không bóng người. Toàn thân chết khát, hai bàn chân bỏng rộp, lê bước trên đường, 19 tuổi, Người một mình đi bộ đến được Sài Gòn!…
Đầu năm 1990, ở Trung Quốc, tôi từ Nam Ninh về Tĩnh Tây, với ý định thăm nơi Bác và hoạt động cách mạng quãng năm 1942, khởi đầu cho chuyến đi bộ gian nan cực khổ nhất trong đời hoạt động của Bác, chuyến đi Nhật ký trong tù. Tĩnh Tây là huyện (gồm 11 trấn, 8 hương) trong thành phố cấp địa khu Bách Sắc của khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây.
Ôtô chạy suốt đêm, đường dài thăm thẳm, đồi núi trập trùng. Chòm xóm dưới thung xa, thấp thoáng ánh đèn như ánh sao mờ. Uống trà ở quán trà nhỏ tên thơ mộng “Lô Sơn Vân Vụ” (Sương mờ trên đỉnh Lô Sơn). Tôi bước vào xóm Pà Mông – xóm nhỏ xưa cũ, cây cầu gạch cổ bắc qua con suối nhỏ cạn trơ sỏi đá. Nắng vàng hiu hắt trên những mái ngõ cũ rêu xanh.
Ngồi trò chuyện với bà con trong xóm sang chơi nhà cụ Từ Vĩ Tam – anh em kết nghĩa với cụ Hồ từ năm 1940. Cụ ông đã qua đời, chỉ còn cụ bà tuổi ngoài 80. Nhắc tới cụ Hồ, cụ bà vừa khóc, vừa lấy vạt áo bông xanh lau nước mắt. Cụ Hoàng Tài Hán – hàng xóm của cụ Tam dẫn tôi đi thăm núi Phong Nham. Trên núi, có hang Thông Phong xuyên qua núi, sương khói mờ ảo, ẩn hiện mấy bài thơ viết trên vách đá. Cụ Hán trân trọng nói với tôi: “Đó là bài thơ của cụ Hồ. Cụ ở trong hang với tôi hồi năm 1941″. Độ ấy, cụ Hán sinh nhai bằng nghề nấu rượu. Cụ Hồ thường giúp cụ Hán nhóm lửa, nếm rượu. Hai cụ ngồi canh nồi rượu, rù rì trò chuyện suốt đêm, cùng lắng nghe gà gáy vọng lên dưới xóm Pà Mông mịt mùng.
Tôi lấy làm tiếc không ghi lại được bài thơ Bác viết trên vách đá, ánh sáng mập mờ, chỉ đọc được bốn chữ: “Ẩn cư hoạt lộ” (ở ẩn đề tìm đường hoạt động). Mong ước dịp nào đó, trở lại đây với máy quay phim, ghi lại thơ của Bác.
Làm phim về Hồ Chí Minh là kỷ niệm lớn, dấu ấn nổi trội trong sự nghiệp của tôi, đó không chỉ là một lãnh tụ, danh nhân văn hoá thế giới, một nghệ sĩ, mà còn là người bộ hành vĩ đại. Trong chùm phim được giải thưởng Nhà nước năm 2007 của tôi, có Truyền kỳ (3 tập: Hình bóng tổ tiên, Truyền kỳ sự thật, Hồ Chí Minh – Hình ảnh của Người). Phim tầm vóc mà tôi rất tâm đắc là Hồ Chí Minh với Trung Quốc (71 phút). Phim này tôi là biên kịch và đạo diễn cùng Thanh An (1934-2011), quay phim Hoàng Tấn Phát – Quốc Thành.
Nhóm NSND ngày nay chỉ còn tôi ở Hải Phòng, Đặng Nhật Minh ở Hà Nội, và cơ hội hợp tác duy nhất trong đời chỉ có nhờ duyên với Bác. Lúc đó, đạo diễn Đặng Nhật Minh là Tổng Thư ký Hội Điện ảnh Việt Nam kiêm Giám đốc Hãng phim Hội Điện ảnh, nên ông là Giám đốc sản xuất của phim này, còn đạo diễn Thanh An là Phó Tổng Thư ký thường trực của Hội Điện ảnh. Tôi đã 3 lần sang Trung Quốc. Đoàn làm phim về Bác Hồ đến hầu hết những nơi Bác từng hoạt động, đến cả Thuý Hồ – nơi Hồ Chí Minh gặp Võ Nguyên Giáp, Tây Hồ – nơi Phạm Lãi lang thang cùng Tây Thi. Tôi đã thăm nhà văn Ba Kim lúc ông rất già yếu, mê cuốn Tuỳ tưởng lục của ông, gặp Giả Bình Ao ở Tây An. Không cuộc gặp nào khiến tôi xúc động như được “gặp” Bác trên nhiều địa danh Trung Hoa rộng lớn.
Một tứ thơ, một tư tưởng…
Hạ tuần tháng 8.1942, cụ Hồ từ Pác Bó sang Tĩnh Tây, dừng chân ở Pà Mông, nhờ một người anh em trong xóm là Dương Thao dẫn đường đi Trùng Khánh tìm gặp Chu Ân Lai và phái đoàn Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Không may, đi đến chợ Túc Vinh huyện Đức Bảo, hai thầy trò bị bọn hương dũng Quốc dân Đảng bắt giam. Từ nhà giam chuyên khu Tĩnh Tây, ngày 29.8.1942, cụ Hồ bị áp giải qua các huyện và thành phố: Điền Đông, Thiên Đằng, Long An, Ung Ninh, Nam Ninh, Vũ Minh, Tân Dương, Liễu Châu, Quế Lâm… Trải qua mười mấy nhà giam, đến ngày 10.9.1943, cụ mới được trả tự do ở Liễu Châu, tính ra vừa hết 1 năm 12 ngày. Đây là chuyến đi bộ cực khổ tột cùng. Đường dài sỏi đá gập ghềnh, vượt qua núi cao vực thẳm. Mùa hè, những cánh đồng khô cháy, nắng như đội lửa; mùa đông gió cắt thịt da, đường sá mênh mang không một bóng người. Chỉ có người tù và toán lính áp giải lê bước trên đường: “Dạ như hắc ám dĩ đăng trình/Lộ hựu khi khu thậm bất bình” (Còn tối như bưng đã phải đi/ Đường đi khúc khuỷu lại gồ ghề); “Nhật hành ngũ thập tam công lý/Thấp tận y quan phá tận hài” (Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa, rách hết giày).
Bụng đói, cật rét, tay bị trói, cổ bị xiềng, run rẩy suốt lộ trình dằng dặc như thế, dù là người thép cũng không chịu nổi! Vậy mà Người đã vượt qua để rồi bao nhiêu gian lao, khổ hận, núi thẳm, non cao cuối cùng chỉ còn đọng lại trong một tứ thơ, một tư tưởng Hồ Chí Minh thanh thản, tận cùng: “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan/Tùng sơn chi ngoại hựu trùng sơn/Trùng sơn đăng đáo cao phong hậu/Vạn lý dư đồ cố phán gian” (Đi đường mới biết gian nan/Núi cao rồi lại núi cao trập trùng/Núi cao lên đến tận cùng/Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non).
Theo Danviet
Nguy cơ vỡ đập chính Hồ Núi Cốc, Thái Nguyên ban bố tình trạng khẩn cấp
Liên quan đến sự cố rãnh thoát nước hạ lưu đập bị gãy đổ dài 200m, một số vị trí bị lún sụt dài tới 8m..., đập chính Hồ Núi Cốc đang đứng trước nguy cơ bị vỡ. UBND tỉnh Thái Nguyên phải ban bố tình trạng khẩn cấp và khẩn trương tìm cách khắc phục.
Nguy cơ vỡ đập Hồ Núi Cốc
UBND tỉnh Thái Nguyên vừa có Quyết định về việc "công bố tình trạng khẩn cấp đập chính Hồ Núi Cốc bị thấm có nguy cơ gây mất an toàn đập".
Đập chính Hồ Núi Cốc bị sự cố sụt lún, gây nguy hiểm cho hàng nghìn hộ dân khu vực hạ lưu.
Theo đó, UBND tỉnh yêu cầu Sở NN&PTNT tiến hành cảnh báo và đặt biển báo khu vực đang có sự cố thấm thân đập; thường xuyên cập nhật, báo cáo tình hình, diễn biến thấm và tiến độ khắc phục khẩn cấp về tỉnh.
Công ty TNHH MTV Khai thác thủy lợi Thái Nguyên (đơn vị trực tiếp quản lý Hồ Núi Cốc) khẩn trương lựa chọn đơn vị tư vấn khảo sát, lập hồ sơ thiết kế, đánh giá hiện trạng, xác định nguyên nhân, có giải pháp khắc phục ngay, đồng thời thường xuyên theo dõi diễn biến mưa lũ và các thông tin cảnh báo để chủ động tham mưu các biện pháp xử lý khi có tình huống xấu xảy ra.
Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tỉnh phối hợp với các địa phương vùng hạ lưu thông báo rộng rãi tình trạng khẩn cấp này. Các địa phương, ngành liên quan tăng cường tuyên truyền để người dân biết, chủ động phòng tránh.
Tìm giải pháp khắc phục sự cố
Trước tình trạng đập Hồ Núi Cốc đang bị sụt lún, hư hỏng nặng và có nguy cơ bị vỡ bất kể lúc nào, UBND tỉnh Thái Nguyên đề ra một số giải pháp khắc phục khẩn và giao Công ty TNHH MTV Khai thác thủy lợi Thái Nguyên làm chủ đầu tư triển khai biện pháp khẩn cấp xử lý sự cố đập chính Hồ Núi Cốc.
Một số điểm tại đập chính bị thủng, khiến mái đập bị sụt lún, mất an toàn.
Thời gian thực hiện trong khoảng 45 ngày (xong trước ngày 20/8/2017 để kịp tích nước hồ phục vụ sản xuất, sinh hoạt theo quy định). Các Sở Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư cùng phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan bố trí kinh phí, thủ tục đầu tư để sớm khắc phục sự cố.
Theo kiểm tra, khảo sát của cơ quan chuyên môn đã phát hiện, đập chính của Hồ Núi Cốc có hiện tượng thấm vai đập phía bờ hữu từ cao trình 45m đến 46m. Một số vị trí thấm ở khu vực giữa mái hạ lưu đập với cao trình 38m, rộng khoảng 150m2.
Tại cao trình từ 42m đến 44m bờ tả có hiện tượng thấm nhiều. Rãnh thoát nước hạ lưu đập bị gãy đổ dài 200m làm tụt tấm lát mái và rãnh thoát nước chân mái hạ lưu bị đổ dài khoảng 8m. Mái lát thượng lưu có một số vị trí bị lún sụt hư hỏng cục bộ.
Sự cố tại đập chính Hồ Núi Cốc.
Ngày 19/6, ông Vũ Hồng Bắc, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên và ông Đoàn Văn Tuấn, Phó Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì Hội nghị bàn giải pháp thực hiện Dự án xử lý cấp bách đập chính hồ Núi Cốc..
Theo đó, Cty TNHH một thành viên Khai thác thủy lợi tỉnh làm chủ đầu tư dự án xử lý cấp bách đập chính hồ Núi Cốc; đơn vị tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi là Tổng Công ty Tư vấn xây dựng thủy lợi Việt Nam.
Mục tiêu của Dự án nhằm khôi phục, đảm bảo an toàn cho toàn bộ công trình thủy lợi hồ Núi Cốc và nhân dân vùng hạ du; đồng thời đảm bảo phát triển đa mục tiêu, đáp ứng nhu cầu dùng nước sản xuất, sinh hoạt kết hợp nuôi trồng thủy sản và phát triển du lịch.
Với tổng mức đầu tư Dự án dự kiến trên 76 tỷ đồng, chủ đầu tư sẽ thực hiện các nội dung chính như: khoan phụt tạo màng chống thấm toàn bộ thân đập, làm lại hệ thông tiêu thoát nước thân đập, sửa chữa hệ thống tiêu thoát nước mặt mái hạ lưu đập, sửa chữa mái hạ lưu những vị trí bị hư hỏng, khôi phục thiết bị quan trắc thấm và bổ sung thiết bị đo mưa...
Theo đó phương án xử lý mà đơn vị tư vấn đưa ra thảo luận về việc khoan phụt tạo màng chống thấm toàn bộ thân đập, vị trí khoan phụt; trong trường hợp cần thiết, cần đưa ra phương án phá 1 trong 7 đập phụ để giữ đập chính; cần có phương án phòng chống lũ lụt, di dân, đảm bảo an toàn cho vùng hạ du...
Lãnh đạo tỉnh Thái Nguyên tổ chức cuộc họp bàn biện pháp khắc phục sự cố, đảm bảo an toàn cho người dân.
Tại hội nghị, ông Đoàn Văn Tuấn yêu cầu các đơn vị chức năng cần ưu tiên xử lý ngay đống đá tiêu nước sau thân đập, bóc tấm bê tông ở mái hạ lưu đập và thực hiện khoan phụt thân đập theo phương án của đơn vị tư vấn đưa ra.
Đối với Công ty TNHH Một thành viên Khai thác thủy lợi tỉnh cần xây dựng phương án, bổ sung các giải pháp đảm bảo an toàn vùng hạ du trong quá trình sửa chữa thân đập chính.
Ông Tuấn cũng giao Sở NN&PTNT tham mưu cho UBND tỉnh thành lập Hội đồng tư vấn để thẩm định, xem xét các giải pháp thực hiện Dự án; Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Tài chính thẩm định quy trình và cân đối nguồn vốn để thực hiện ngay; đồng thời, tham mưu văn bản để UBND tỉnh báo cáo Bộ NN&PTNT, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch - Đầu tư để bố trí nguồn kinh phí hỗ trợ sửa chữa cho tỉnh.
Tuấn Hợp
Theo Dantri
Hồ Núi Cốc gặp sự cố, Thái Nguyên ban bố tình trạng khẩn cấp Đập chính hồ Núi Cốc có hiện tượng thấm lan rộng, rãnh thoát nước hạ lưu bị đổ gãy với chiều dài 200 m. Ngày 19/6, đoàn công tác của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đến làm việc với UBND tỉnh Thái Nguyên về việc xử lý sự cố đập chính và phương án đảm bảo an toàn vùng...