Đến lúc làm ăn: Tìm vốn ở đâu
Sau hơn một năm vật vã trong khó khăn, đến nay kinh tế đã bắt đầu có những tín hiệu triển vọng. Nhiều chuyên gia và doanh nhân tin rằng, trong nhiều lĩnh vực đã có thể tính chuyện đầu tư để đón đầu cơ hội.
Tuy nhiên, chuẩn bị cho một nhu cầu mới, DN vẫn đau đầu với vấn đề cũ: Vốn ở đâu?
Doanh nghiệp vẫn đau đầu với vấn đề cũ: Vốn ở đâu?
Không tin nhau: Khó huy động vốn
Rất nhiều doanh nghiệp trong nước đang điêu đứng vì không biết kiếm đâu ra vốn để tái đầu tư trong bối cảnh hàng tồn kho vẫn còn là thách thức lớn cho các doanh nghiệp. Trái lại, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) có hiện tượng “giấu vốn”.
Thực tế hiện nay, chính các NHTM cũng đang loay hoay chưa biết giải quyết ra sao với lượng “nợ xấu” của mình. Điều này không khó nhận thấy khi con số nợ xấu được xem là đáng tin cậy nhất của Ngân hàng Nhà nước báo cáo tính đến 31/03/2012 chiếm 8,6%, các NHTM cũng chỉ báo nợ xấu ở mức 4,47% dù thời điểm báo cáo là 31/05/2012.
Bên cạnh đó, triển vọng phục hồi của nền kinh tế hiện nay chưa có dấu hiệu khả quan khi lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp là rất lớn. Đơn cử ở thị trường bất động sản. Trong số hơn 70 doanh nghiệp bất động sản niêm yết, giá trị hàng tồn kho cuối quý II/2012 đạt khoảng 3,1 tỷ USD trong đó có đến 18/72 doanh nghiệp có giá trị hàng tồn kho khoảng 48 triệu USD.
Ở mặt hàng vật liệu xây dựng, theo Hiệp hội thép Việt Nam (VSA), tính đến tháng 8/2012, lượng thép tồn kho đang lên đến hơn 300.000 tấn. Không khả quan hơn, Hiệp hội xi măng Việt Nam cho biết tổng lượng tồn kho ngành gạch lên đến hơn 3.000 tỷ đồng. Chính vì tâm lí không ai “ăn cơm nhà vác tù và hàng Tổng”, khi bản thân gặp khó khăn và doanh nghiệp lại không có triển vọng phục hồi thì việc “ém vốn” là điều hoàn toàn dễ hiểu.
Video đang HOT
Đa số vốn vay của DN đều dựa vào tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, kênh huy động vốn này phải có đảm bảo tài sản (bất động sản, nhà xưởng…) và đều bị các NHTM chi phối. Thế nhưng, với thực tế trên đây thì các NHTM thường sẽ khó chịu “đổ t.iền” ra cho DN trong bối cạnh hiện nay.
Đại diện Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi, ông Đoàn Trọng Lý, cho biết có doanh nghiệp có giá trị tài sản thế chấp trị giá 130 tỉ đồng, nhưng chỉ được vay vốn 30 tỉ đồng. Còn theo Chủ tịch HĐQT Động Lực, ông Nguyễn Văn Thành, việc cho vay hiện nay không ổn định khi mỗi tháng một kiểu cho vay, thậm chí việc vay vốn để xuất khẩu mà vẫn phải trả lãi suất 13,5%/năm.
Một trong những kênh huy động vốn khác chính là cổ phiếu. Tuy nhiên, doanh nghiệp muốn phát hành cổ phiếu thường phải đối mặt với sức ép về hai ba tầng cam kết: cam kết về lợi nhuận sau đầu tư, cam kết về quản trị và điều hành doanh nghiệp, cam kết về quản trị và điều hành, các quyền mua, quyền bán, cam kết không cạnh tranh, cam kết chia cổ tức cho cổ đông nhỏ lẻ…
Trong bối cảnh hiện nay, việc thực hiện hàng loạt các cam kết vừa nêu có lẽ không phải doanh nghiệp nào cũng có thể hoàn thành trong một sớm một chiều. Đó là chưa tính đến trường hợp nhà đầu tư có quyền bác bỏ những kế hoạch, cam kết mà họ cho là “bất khả thi” trong bối cảnh kinh tế khó dự báo như hiện nay.
Thiết lập cầu nối
Khi các NHTM “đóng cửa bảo nhau”, các doanh nghiệp “dưới chuẩn” vay đang đối đầu với bờ vực phá sản thì có lẽ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần phải mạnh tay hơn. Chính phủ cần có các biện pháp để khơi thông nguồn vốn cho khu vực sản xuất, đồng thời đảm bảo chấn chỉnh các tiêu chuẩn an toàn tài chính cho các ngân hàng.
Bên cạnh đó, cần có những ưu tiên chính sách thuế, hỗ trợ kỹ thuật… cho các doanh nghiệp xuất khẩu nhằm kích thích thị trường, giải quyết hàng tồn của các doanh nghiệp. Đồng thời khuyến khích phát triển chất lượng hàng hóa để hướng tới các thị trường xuất khẩu, điển hình như thị trường Hoa Kỳ khi nước này vừa tung ra gói kích cầu.
Trên phương diện Ngân hàng Nhà nước, cần can thiệp vào những quy định lãi suất trần. Quy định cụ thể các điều kiện cho vay để các doanh nghiệp có cơ sở pháp lí thực hiện các giao dịch với ngân hàng, tăng vốn tái đầu tư. Đồng thời giám sát việc thực hiện các hoạt động cho vay, các hoạt động cân đối thu chi của các NHTM nhằm phát hiện kịp thời các sai phạm.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp cũng cần những động thái nhất định nhằm chủ động hơn trước khó khăn. Đặc biệt cần xác định định hướng kinh doanh phù hợp với “túi t.iền” hiện tại.
Theo chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh, có thể thấy việc đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro và không phải là thế mạnh truyền thống của doanh nghiệp Việt như bất động sản, chứng khoán… quá nhiều. Trong khi đó là việc đầu tư sản xuất, kinh doanh hàng hóa ưu tiên nhằm xoay chuyển nguồn vốn kịp thời thay vì phụ thuộc quá nhiều vào các NHTM.
Đã qua rồi cái thời phụ thuộc quá nhiều vào NHTM để làm “phồng to” các báo cáo tài chính của mình, bởi giờ đây đối với các doanh nghiệp, NHTM không còn mặn mà vì những bất ổn nội tại. Thế nên, quay lại và gắn bó với việc sản xuất nhỏ lẻ, nền tảng sẽ là những bước đi khôn ngoan nhằm tự phục hồi bản thân.
Theo Dantri
Đô thị hoang vắng
Hàng trăm dự án khu dân cư, khu đô thị tại TP.HCM đang bỏ không. Nhiều dự án đã xong hạ tầng, nhà xây sẵn nhưng không ai ở.
Hàng loạt dự án khu đô thị ở TP.HCM bỏ hoang từ nhiều năm nay - Ảnh: Đình Sơn
Tại dự án Bắc Rạch Chiếc do Công ty địa ốc 10 và một số công ty khác làm chủ đầu tư, khu đô thị rộng hơn 80 ha sau hơn 10 năm triển khai hiện mới chỉ lác đác một vài căn nhà được xây, cỏ cây ngút ngàn. Một số hộ chăn nuôi ở quận 9 tranh thủ thả trâu bò vào gặm cỏ. Một người chăn trâu cho biết đã thả trâu ở đây đến vài năm nay.
Khi xảy ra khủng hoảng, nhà nước mua lại dự án với giá thấp hơn, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp, sau đó đấu giá bán lại
TS Nguyễn Xuân Thành
Đỗ Xuân Hợp là con đường được mệnh danh "thiên đường dự án" bởi theo thống kê của Công ty địa ốc Hưng Lộc Phát, chỉ riêng phần đường Đỗ Xuân Hợp chạy qua P.Phước Long B và Phú Hữu (Q.9) đã có 39 dự án, với diện tích hàng trăm héc ta. Sau cả chục năm triển khai, đến nay cũng chỉ có lác đác vài căn nhà. Cách đó không xa là khu dân cư Bình Trưng Đông - Cát Lái một phần thuộc quận 9 và quận 2 rộng hơn 400 ha đến nay hạ tầng chưa làm xong, người ở thưa thớt.
Ông Đặng Đức Bền, Giám đốc Công ty Hưng Lộc Phát, nói rằng mặc dù đất để hoang nhưng đều đã có chủ, thậm chí nhiều lô đất đã sang tay hàng chục người. Hiện giá đất nền khu vực này giảm bình quân 3-4 triệu đồng/m2 so với thời gian sốt năm 2007-2008, nhưng ít người mua.
Còn có thể kể các dự án Khu đô thị Phong Phú 4 rộng gần 90 ha của Công ty đầu tư - xây dựng Bình Chánh, khu dân cư Hồng Quang (huyện Bình Chánh) rộng 37 ha, Phú Xuân, Phước Kiển (Nhà Bè)... sau mấy năm triển khai đến nay vẫn rất ít người ở.
Xót xa nhất là cảnh nhiều biệt thự, nhà phố xây dựng nhưng không ai ở, nhiều người đã tận dụng để nuôi chim yến. Dự án Khu dân cư Khang An (Q.9) do Công ty địa ốc Khang An làm chủ đầu tư rộng 11,5 ha với nhiều biệt thự được xây xong phần thô nhưng đang bỏ không. Ở khu Tên Lửa sầm uất nhất của quận Bình Tân, hơn 120 căn nhà phố xây dựng hoàn thiện 3 tầng thuộc dự án khu dân cư Bình Trị Đông của Công ty Ngân Sơn cũng nằm phơi mưa nắng 4 năm nay.
Cách đó không xa, khoảng 60 căn nhà phố đã xây dựng hoàn thiện của Công ty XNK Sài Gòn chung cảnh ngộ. Nhiều dự án ở Nhà Bè, Q.2, Q.7, Q.8... cũng trong tình trạng tương tự. Khó có thể hình dung một lượng vốn đầu tư lớn đến thế nào đang bị chôn trong những dự án này. Một khối tài sản lớn của xã hội đang lãng phí từng ngày.
Cần nhà nước ra tay
Theo thống kê của Sở Xây dựng TP.HCM, hiện có 1.166 dự án nhà ở trên địa bàn thành phố nhưng chỉ có 195 dự án hoàn thành, còn lại đang triển khai hoặc đã dừng hẳn.
Tại một hội thảo tìm giải pháp và cơ hội tiếp cận các tổ chức tín dụng do Bộ Xây dựng tổ chức gần đây, con số thống kê được công bố cho biết cả nước đang tồn khoảng 60.000 căn hộ, trong đó TP.HCM là 40.000 căn và Hà Nội là 20.000 căn. Trao đổi với Thanh Niên, chuyên gia Vũ Đình Ánh cho rằng nếu tính bình quân mỗi căn hộ khoảng 1 tỉ đồng thì số t.iền "chôn" theo địa ốc khoảng 60.000 tỉ đồng, tức 2,86 tỉ USD. Điều đáng nói, phân khúc căn hộ chỉ là một phần của thị trường, tình trạng các khu đô thị trong đó có đất nền, nhà phố, biệt thự... đang bỏ trống rất nhiều đến nay vẫn chưa thống kê được.
Để có thể giải cứu các dự án đô thị này, theo ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM, không gì khác hơn là phải giúp thị trường thoát khỏi tình trạng đình đốn hiện nay. Cần có biện pháp tạo thanh khoản cho thị trường bằng cách kích cầu, hỗ trợ trực tiếp về tài chính, lãi suất, thuế cho người mua nhà đất, nhất là những người mua nhà lần đầu. Giá địa ốc cần giảm hơn nữa, về mức người dân có nhu cầu có thể mua được nhà và doanh nghiệp cũng còn sống được. Để tăng tính thanh khoản của thị trường, ông Châu cũng đề xuất nên phát triển căn hộ cho thuê giá rẻ khoảng trên dưới 2 triệu đồng/căn/tháng đáp ứng nhu cầu công chức, người dân có thu nhập thấp, và loại sản phẩm căn hộ bán trả góp dài hạn 20-30 năm.
Theo TS Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc chính sách công - Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, phải dùng nguồn lực của nhà nước mới có thể phá được tình trạng bế tắc. "Kinh nghiệm thành công ở thế giới cho thấy khi xảy ra khủng hoảng, nhà nước mua lại dự án với giá thấp hơn, giải quyết khó khăn cho doanh nghiệp, sau đó đấu giá bán lại. Giải pháp này vừa cứu doanh nghiệp vừa tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước", ông Thành phân tích. Bên cạnh đó, tất cả các quốc gia muốn phát triển thị trường địa ốc đều bắt nguồn từ chính sách thuế. Do đó, thành phố nên đề xuất giữ lại khoản thuế nhà ở, thuế bất động sản... để đầu tư cơ sở hạ tầng, phục vụ lại cho bất động sản.
Việc cứu thị trường là cấp bách, bởi tình trạng các dự án bỏ trống nói trên đang gây thiệt hại lớn cho xã hội từng ngày.
Theo TNO
Ô tô nhập chạm đáy vì… ế Sức mua sụt giảm mạnh khiến các đơn vị nhập khẩu "nằm im" không dám đưa nhiều xe về nước. Vì thế, việc lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc ở mức thấp kỷ lục trong gần 3 năm trở lại đây không phải là lạ. Số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan cho thấy số xe nhập khẩu vào...