Đề xuất kiểm tra, xử lý lượng hàng nhập khẩu không phù hợp quy định về đo lường
Bộ Khoa học và Công nghệ đang lấy ý kiến góp ý vào Dự thảo Thông tư sửa đổi một số điều của Thông tư số 28/2013/TT-BKHCN ngày 17/12/2013 quy định kiểm tra nhà nước về đo lường.
Đáng chú ý, dự thảo Thông tư đề xuất hướng xử lý khi phát hiện phương tiện đo, lượng hàng đóng gói sẵn nhập khẩu không phù hợp quy định của pháp luật về đo lường…
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Hạn chế phương tiện đo nhập khẩu không bảo đảm yêu cầu kỹ thuật về đo lường
Thông tư số 28/2013/TT-BKHCN là hành lang pháp lý quan trọng, tạo sự thống nhất và đồng bộ cho việc triển khai hoạt động kiểm tra nhà nước về đo lường trong sản xuất, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường và trong quá trình sử dụng phương tiện đo, chuẩn đo lường, lượng của hàng đóng gói sẵn, phép đo, hoạt động kiểm định hiệu chuẩn thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường.
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, qua gần 10 năm triển khai thực hiện Thông tư số 28/2013/TT-BKHCN, công tác quản lý nhà nước về đo lường đã có nhiều chuyển biến tích cực theo sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng và Chính phủ.
Hoạt động kiểm tra nhà nước về đo lường đối với các phương tiện đo nhập khẩu đã có hiệu quả, góp phần vào việc hạn chế phương tiện đo nhập khẩu không bảo đảm yêu cầu kỹ thuật về đo lường, tăng tính chấp hành quy định pháp luật về đo lường bảo đảm tính chính xác, thống nhất trong đo lường.
Số lượng mẫu phương tiện đo nhập khẩu đã thực hiện thủ tục phê duyệt mẫu hằng năm đều tăng. Đặc biệt, sau khi Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành Quyết định số 2284/QĐ-BKHCN ngày 15/8/2018 về việc Công bố Bảng mã HS đối với phương tiện đo nhóm 2 phải phê duyệt mẫu thuộc đối tượng kiểm tra nhà nước về đo lường khi nhập khẩu thì số lượng phương tiện đo nhập khẩu tăng đột biến đến 70% trong năm 2019 và năm 2020.
Xem xét sửa đổi kiểm tra nhà nước về đo lường cho phù hợp với thực tiễn
Video đang HOT
Tuy nhiên, quá trình đ.ánh giá của bộ, ngành, địa phương về thực trạng thi hành các quy định của Thông tư số 28/2013/TT-BKHCN đã bộc lộ một số tồn tại, vướng mắc liên quan đến hoạt động kiểm tra phương tiện đo nhóm 2, lượng của hàng đóng gói sẵn nhóm 2 nhập khẩu quy định tại Chương II Thông tư như sau:
- Thời gian thử nghiệm mẫu để làm thủ tục phê duyệt mẫu thường kéo dài hơn 30 ngày, thậm chí có một số mặt hàng lên đến 60 – 90 ngày, làm kéo dài thời gian thông quan hàng hóa, gây khó khăn cho doanh nghiệp;
- Không đủ kho, bãi để lưu giữ phương tiện đo, hàng hóa chờ thủ tục thông quan;
- Phát sinh nhiều chi phí cho doanh nghiệp khi làm thủ tục thông quan hàng hóa.
- Đối với lượng của hàng đóng gói sẵn nhóm 2 nhập khẩu, hiện tại Bộ Khoa học và Công nghệ chưa thể ban hành được Danh mục hàng đóng gói sẵn nhóm 2 vì các nước ASEAN cũng như các quốc gia khác trong Tổ chức đo lường pháp định quốc tế (OIML) còn đang nghiên cứu, chưa thống nhất về việc ban hành Danh mục này.
Về công tác kiểm tra tăng cường, không có hồ sơ phát sinh do Bộ Khoa học và Công nghệ không nhận được ý kiến phản ánh của các cơ quan có liên quan, các doanh nghiệp hay người tiêu dùng. Vì vậy, hoạt động kiểm tra tăng cường đối với phương tiện đo nhóm 2, lượng của hàng đóng gói sẵn nhóm 2 giữa Bộ Khoa học và Công nghệ với các Bộ, ngành có liên quan không thực hiện trong suốt thời gian qua mà chủ yếu được chuyển sang thành hoạt động kiểm tra theo kế hoạch hoặc đột xuất do đơn vị Thanh tra Khoa học và Công nghệ thực hiện.
Xử lý phương tiện đo, lượng của hàng đóng gói sẵn nhập khẩu không phù hợp
Theo dự thảo Thông tư, sửa đổi khoản 3 Điều 21 của Thông tư số 28/2013/TT-BKHCN như sau: Trường hợp kiểm tra trên thị trường, trong sử dụng, phát hiện phương tiện đo, lượng của hàng đóng gói sẵn nhập khẩu không phù hợp quy định của pháp luật về đo lường, cơ quan chủ trì kiểm tra xử lý theo thẩm quyền và có văn bản yêu cầu tổ chức, cá nhân nhập khẩu thực hiện biện pháp khắc phục, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng.
Cơ quan chủ trì kiểm tra thực hiện việc kiểm tra sau khi đã khắc phục. Tùy theo mức độ và quy mô ảnh hưởng, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng xem xét, thông báo bằng văn bản cho Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng/Sở Khoa học và công nghệ và cơ quan Hải quan tại các địa phương nơi nhập khẩu thực hiện kiểm tra khi nhập khẩu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định tạm dừng hoặc dừng việc nhập khẩu loại phương tiện đo, hàng đóng gói sẵn đó.
Ngoài ra, dự thảo Thông tư đề xuất bãi bỏ Chương II “Kiểm tra khi nhập khẩu”; bãi bỏ Khoản 1 Điều 39; bãi bỏ Mẫu 1.ĐKKT, Mẫu 2. PTNHSĐK và Mẫu 3. TBKQKT tại Phụ lục…
Hoạt động xuất nhập khẩu thích ứng với căng thẳng Nga - Ukraine
Căng thẳng Nga - Ukraine gây ra những biến động khó lường trên quy mô toàn cầu, đặt hoạt động xuất nhập khẩu trước những tác động tiêu cực liên quan tới vận tải, lạm phát và thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên, trong nguy cơ vẫn có những cơ hội nhất định cho những doanh nghiệp có biện pháp thích ứng kịp thời.
Các chuyên gia trao đổi thông tin với doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại hội thảo.
Đây là nhận định của các chuyên gia tại Hội thảo "Giải pháp thích ứng cho hoạt động xuất nhập khẩu trong bối cảnh khủng hoảng Nga - Ukraine" do Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) phối hợp Trung tâm Hỗ trợ Hội nhập Quốc tế TP Hồ Chí Minh (CIIS) tổ chức, ngày 20/4.
Thách thức từ sự bất ổn
Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) nhận định: căng thẳng Nga-Ukraine được xem là một trong những tâm điểm nóng gây nên những ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế của nhiều quốc gia. Là các đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam trong khu vực Á-Âu, hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Nga - Ukraine, dưới áp lực của cuộc khủng hoảng, cũng đã có những biến động đáng kể. Việc đứt gãy chuỗi cung ứng do tác động của đại dịch COVID-19 còn chưa khắc phục thì doanh nghiệp lại tiếp tục phải đối mặt với tình trạng gián đoạn cung ứng nguyên, nhiên liệu. Căng thẳng Nga-Ukraine cũng dẫn tới việc cấm vận, giao nhận hàng hóa bị trì hoãn, đứt đoạn, chi phí vận chuyển tăng cao.
Ông Phạm Bình An, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP Hồ Chí Minh thông tin: Nga và Ukraine là những thị trường truyền thống và có tính thương mại cao đối với Việt Nam. Điều này thể hiện rõ qua các thống kê, cụ thể, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam với Nga và Ukraine năm 2021 vào khoảng 7,6 tỷ USD, chiếm 1,2% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước; trong đó, kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và Nga đạt 7,14 tỉ USD, tăng 25,9% so với năm 2020, đứng thứ 21 trong số các đối tác thương mại của Nga. Việt Nam cũng là đối tác thương mại lớn nhất của Nga trong khu vực ASEAN, đối tác lớn thứ 5 trong các nền kinh tế APEC.
Căng thẳng Nga-Ukraine vì thế vừa ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến kinh tế Việt Nam. Theo đó, không chỉ gặp khó khăn trong việc thiếu hụt nguồn cung một số mặt hàng nhập khẩu trực tiếp từ Nga và gián đoạn xuất khẩu các sản phẩm sang Nga, Ukraine, doanh nghiệp Việt Nam phải chịu sự cạnh tranh trong thu mua nguyên liệu từ các thị trường khác. Mặt bằng giá nguyên liệu tăng nhanh làm gia tăng áp lực lạm phát, cộng với những bất cập, rủi ro về mặt logistics và thanh toán quốc tế là gánh nặng với hoạt động xuất nhập khẩu.
Ở góc độ ngành hàng xuất khẩu, ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) nhận định, mặc dù Nga và Ukraine không nằm trong top các thị trường xuất khẩu thủy sản nhưng đây vẫn là những thị trường quan trọng, có tiềm năng phục hồi tăng trưởng mạnh. Khi căng thẳng giữa hai quốc gia xảy ra, rất nhiều hoạt động đã bị đình trệ như thanh toán gián đoạn, vận chuyển khó khăn, các hợp đồng cũ tồn đọng, hợp đồng mới không thể ký kết...
"Việc đứt gãy chuỗi cung ứng ở hai thị trường Nga và Ukraine ảnh hưởng lớn tới doanh nghiệp ngành thủy sản ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác khi phần lớn các nguyên liệu đều được nhập khẩu từ Nga. Các đơn hàng liên tục bị hoãn, hủy dẫn đến tình trạng ùn ứ, chi phí phát sinh nhiều, doanh nghiệp chịu nhiều tổn thất.", ông Hoè chia sẻ thêm.
Tận dụng cơ hội để thích ứng
Tác động tiêu cực của căng thẳng Nga -Ukraine là vấn đề đã hiện hữu, nhưng theo Tiến sĩ Vũ Tiến Lộc thay vì hoang mang, doanh nghiệp nên nhìn nhận cục diện ở góc độ tích cực hơn bởi Việt Nam có được nhiều lợi thế, thụ hưởng nhiều cơ hội từ việc ký kết hiệp định thương mại tự do với các quốc gia trên thế giới. Bên cạnh đó, với sự ổn định về kinh tế, chính trị và kiểm soát tốt tình hình đại dịch, Việt Nam đang là điểm đầu tư và là đối tác hợp tác đầy tiềm năng và uy tín.
Ông Vũ Tiến Lộc cho rằng, doanh nghiệp cần phải có các chiến lược dài hạn để ứng phó với bối cảnh biến động của thị trường. Cùng với đó, doanh nghiệp cũng phải trang bị và được hướng dẫn các giải pháp về quản trị rủi ro, giảm thiểu thiệt hại, xử lý tranh chấp để có khả năng chống chịu cao hơn và phục hồi hoạt động kinh doanh một cách nhanh chóng hơn trong thời gian tới.
Cùng quan điểm, ông Phạm Bình An nhấn mạnh: Trong "nguy" luôn có "cơ" và việc doanh nghiệp cần làm là phải có các chiến lược phù hợp tận dụng được cơ hội đó. Cụ thể, khi thế giới biến động và nhiều rủi ro, các nhà đầu tư có xu hướng dịch chuyển sang các khu vực có nền tảng chính trị ổn định hơn, đây là cơ hội để Việt Nam thu hút đầu tư mới. Chuỗi sản xuất, cung ứng bị đứt gãy tạo ra khoảng trống, doanh nghiệp có cơ hội để tham gia vào quá trình thiết lập lại các chuỗi cung, mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường EU trong lĩnh vực nông sản và thực phẩm. Trong khi đó, các sản phẩm khác có thể đẩy mạnh tiếp cận và giành thị phần tại thị trường Nga.
Ông Phạm Bình An, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển TP Hồ Chí Minh trình bày tham luận tại hội thảo.
"Để biến nguy thành cơ, doanh nghiệp phải chủ động đa dạng hoá thị trường và nguồn cung cũng như phương thức thanh toán. Đồng thời, chủ động đàm phán để hạn chế rủi ro về điều khoản thực hiện và thanh toán. Hơn bao giờ hết, doanh nghiệp nghiên cứu những ưu đãi đã có hiệu lực từ các hiệp định thương mại tự do để vận dụng một cách triệt để vào việc giảm giá thành, cải thiện khả năng cạnh tranh.", ông Phạm Bình An nêu khuyến nghị.
Trong khi đó, ông Trương Đình Hoè cho biết, nhằm ứng phó với tình hình căng thẳng giữa Nga - Ukraine, cộng đồng doanh nghiệp thủy sản đã điều chỉnh hoạt động kinh doanh kịp thời. Theo đó, những đơn hàng đã giao doanh nghiệp chủ động tiến hành các biện pháp thanh toán nhanh thông qua các kênh từ ngân hàng nước ngoài, ngân hàng tư nhân. Những đơn hàng đang trên đường vận chuyển đến các cảng có nguy cơ bị đóng được kéo về, hoãn hoặc huỷ đơn hàng; với đơn hàng khách yêu cầu giao thì thống nhất lại phương thức thanh toán, thay đổi cảng nhận và khách hàng chịu chi phí phát sinh.
Để có thể thích ứng dài hạn và hiệu quả, doanh nghiệp thuỷ sản đang tích cực tìm kiếm cơ hội gia tăng thị phần cá tra trước sự thiếu hụt nguồn cung cá thịt trắng tại châu Âu. Bên cạnh đó, ngành thuỷ sản cũng xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại để mở rộng xuất khẩu trực tiếp sang các thị trường trước đây tiêu thụ gián tiếp nhiều thuỷ sản của Nga. Đồng thời, điều chỉnh kế hoạch nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản để tránh các tác động tiêu cực do lệnh cấm vận Nga.
Liên quan đến những rủi ro trong giao thương quốc tế, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Võ Trí Hảo, Hiệu trưởng Đại học Gia Định, Trọng tài viên VIAC lưu ý, để duy trì hoạt động kinh doanh và không bị hoãn hủy các hợp đồng doanh nghiệp cần phải có các phương án quản trị rủi ro phù hợp; quy định cụ thể về các trường hợp được áp dụng điều khoản bất khả kháng trong hợp đồng cũng như lựa chọn phương thức thanh toán phù hợp.
Tăng hiệu quả quản lý, sử dụng biệt thự công Sở Xây dựng Hà Nội đã tham mưu UBND thành phố Hà Nội ban hành Chuyên đề "Giải pháp đẩy mạnh công tác quản lý, sử dụng các biệt thự công được xây dựng từ trước năm 1954 trên địa bàn thành phố Hà Nội". Trong những năm gần đây, bên cạnh ưu tiên phát triển các khu đô thị, khu nhà ở...