Đề xuất ghi hình khi hỏi cung
Dự thảo Bộ Luật Tố tụng hình sự đề xuất phải ghi âm, ghi hình hoạt động hỏi cung bị can để chống bức cung, nhục hình…
Ngày 30-3, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã họp thẩm tra dự án Bộ Luật Tố tụng hình sự (TTHS) sửa đổi do VKSND Tối cao chủ trì soạn thảo.
Đề xuất “quyền im lặng”
Dự thảo Bộ Luật TTHS sửa đổi quy định theo hướng bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội; các biện pháp chống bức cung, nhục hình. Đặc biệt, dự thảo quy định “quyền của người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Đồng tình dự thảo, luật sư Lê Thúc Anh, Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, nói: “Quyền im lặng phải quy định rõ trong bộ luật để bảo đảm quyền con người”. Tuy nhiên, Thượng tướng Lê Quý Vương, Thứ trưởng Bộ Công an, lại chưa thống nhất với quy định “quyền im lặng”. “Tôi vào ngành đã 30 năm và thấy băn khoăn nếu đưa vào luật “quyền im lặng”. Nghi can được xác định chém chết 3 người mà đưa vào công an cứ ngồi im chờ vài ngày để luật sư đến thì chả ai làm được gì” – ông Vương lập luận.
Lo thiếu phương tiện
Đáng chú ý, dự thảo đề ra quy định theo hướng bắt buộc phải ghi âm, ghi hình hoạt động hỏi cung bị can để chống bức cung, nhục hình, mớm cung, bảo đảm tính minh bạch, tăng khả năng kiểm soát đối với hoạt động tố tụng hình sự. Về sự đột phá này, nhóm nghiên cứu cho rằng quy định bắt buộc trong mọi trường hợp là không cần thiết, không khả thi. “Nhưng cũng có ý kiến cho rằng bắt buộc ghi âm, ghi hình sẽ phản ánh trung thực quá trình hỏi cung, hạn chế tối đa bức cung, nhục hình” – nhóm nghiên cứu thông tin.
Ông Huỳnh Ngọc Ánh, Phó Chánh án TAND TP HCM, nhận định việc cho phép chụp ảnh, ghi hình lấy cung hay ghi chép lời khai là không khả thi
Ông Huỳnh Ngọc Ánh, Phó Chánh án TAND TP HCM, băn khoăn: “Cho phép chụp ảnh, ghi hình khi lấy cung hay ghi chép lời khai là không khả thi. Trại tạm giam lấy đâu ra máy photocopy, máy ảnh… Ngay chúng tôi vào trại giam, muốn chụp tài liệu cũng chịu vì không có máy”.
Thiếu tướng Nguyễn Đức Chung, Giám đốc Công an TP Hà Nội, cho biết mỗi năm, cả nước có hàng trăm ngàn đối tượng hình sự mà lời khai của họ trong thời gian tạm giam, tạm giữ chỉ là 1 yếu tố chứng cứ nếu bắt buộc phải photocopy thì quá tải, lãng phí. Bên cạnh đó, thời gian lưu hồ sơ của công an và tòa án khác nhau (50-60 năm so với 10-20 năm) nên khi truy xét rất phức tạp. “Xảy ra một số vụ bức cung, nhục hình rồi dự thảo cho phép phải quay phim, ghi âm, chụp lời khai trong quá trình hỏi cung… thì nơi nào mà lưu được, rất tốn kém. Cần có tổng kết thực tiễn về vấn đề này” – ông Chung kiến nghị.
Siết đầu vào tạm giam
Về căn cứ và thời hạn tạm giam, dự thảo nghiêng theo hướng sửa đổi so với quy định hiện hành, chỉ áp dụng tạm giam khi có căn cứ xác định người đó cản trở điều tra, truy tố, xét xử; tiếp tục phạm tội; bỏ trốn hoặc không có nơi cư trú rõ ràng. Đồng thời, giảm thời gian tạm giam theo hướng chỉ gia hạn 1 lần thay vì 2 lần như hiện hành đối với tội nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, 2 lần thay vì 3 lần đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Có ý kiến giữ nguyên như hiện hành, cứ tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng là tạm giam không cần căn cứ trên.
Nhóm nghiên cứu đề nghị kế thừa quy định hiện hành, có thể tạm giam đối với tội đặc biệt nghiêm trọng và rất nghiêm trọng; đồng thời yêu cầu cụ thể hóa, làm rõ các tiêu chí về căn cứ để áp dụng cho các tội nghiêm trọng và ít nghiêm trọng.
Ông Huỳnh Ngọc Ánh đồng ý việc hạn chế giam giữ, không phải lúc nào cũng tạm giam, tạm giữ mà thay bằng nộp tiền và bộ luật cần quy định chặt chẽ. “Có vụ án xử 12 tháng, nếu thời hạn tạm giam ít thì khi xử sớm bị cáo có thể thụ án 7-8 tháng là được về vì gặp đợt xét giảm án. Vì thế, phải siết quy định đầu vào tạm giam” – ông Ánh kiến nghị.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga đồng tình với ông Ánh khi đề nghị thời hạn tạm giam phải đồng nhất với thời gian truy tố, xét xử. “Chứ có vụ tạm giam tới 7 năm dẫn đến ra xét xử phải đúng mức này để cân bằng” – bà Nga nêu thực trạng.
Thượng tướng Lê Quý Vương đề xuất dự luật quy định quyền được khám sức khỏe trước khi bị tạm giam, tạm giữ. Theo ông, vừa qua nhiều trường hợp treo cổ, tự sát trong trại giam hoặc chết do bệnh lý trong các nhà tạm giữ, tạm giam đã ảnh hưởng đến uy tín ngành công an.
Bệnh thành tích dẫn đến oan sai
Video đang HOT
Ông Huỳnh Ngọc Ánh bày tỏ sự không đồng tình với dự thảo là chỉ được trả hồ sơ 1 lần để điều tra lại. “Đừng lấy việc trả hồ sơ là thành tích mà hãy xem việc trả hồ sơ là bình thường. Chúng ta mắc bệnh thành tích nên dẫn tới oan sai. Án không xử được thì phải trả, trả nhiều lần thì đầu ngành phải ngồi lại để xem xét vì sao phải trả, hổng ở khâu nào…”- ông Ánh nói.
Về các biện pháp điều tra đặc biệt, dự thảo thể hiện theo hướng cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp mới là “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật”. Nhưng cũng có ý kiến cân nhắc kỹ lưỡng việc luật hóa các biện pháp này vì đây là vấn đề rất “nhạy cảm”. Về việc này, ông Nguyễn Đức Chung nói: “Ghi âm, ghi hình mà bí mật như dự thảo đề xuất về “biện pháp đặc biệt” thì không được xem là chứng cứ nên cần phải xem xét lại”.
Bài và ảnh: Thế Dũng
Theo_Người lao động
Ám ảnh oan sai và kỳ vọng về một "lá chắn" pháp lý
- Hàng loạt vụ án oan bị phanh phui trong thời gian qua đã để lại nhiều day dứt cho những người làm công tác tố tụng.
Ép cung, nhục hình oan sai được xem là một tội ác. Việc này ban đầu vì lý do chủ quan hoặc khách quan của một số điều tra viên gây ra, nhưng chịu trách nhiệm lại thuộc Hội đồng xét xử (HĐXX), trong khi trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát lại chưa được nhắc đến nhiều.
Từ thực tế đó, giới chuyên gia kỳ vọng, Bộ luật Tố tụng Hình sự sửa đổi đang được đưa ra bàn thảo sẽ đảm bảo nguyên tắc xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Thạc sỹ Đinh Văn Quế, nguyên Chánh tòa Hình sự, TANDTC: Còn tồn tại cách làm trái pháp luật, VKS phải làm tròn vai trò.
Để các vụ án xét xử đúng người, đúng tội cần phải thấy rõ trách nhiệm và vai trò của VKS. Có thể thấy, trong thời gian chuẩn bị xét xử, các quyết định chủ yếu do toà án thực hiện. Tuy nhiên, để bảo đảm việc truy tố đúng người đúng tội, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) sửa đổi cũng quy định, trong thời gian chuẩn bị xét xử VKSND cũng có thể ra một số quyết định như: Quyết định rút quyết định truy tố; quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án sau khi toà án trả hồ sơ để điều tra bổ sung và một số quyết định khác theo quy định của BLTTHS.
Trong các quyết định trên, thì quyết định rút quyết định truy tố là quyết định trong thời gian chuẩn bị xét xử, còn các quyết định khác thực chất là trong giai đoạn truy tố nhưng vì có liên quan đến giai đoạn chuẩn bị xét xử, vì các quyết định này sau khi toà án trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung. Chính vì thế có thể nhận ra, trước, trong và sau vụ án, VKSND giữ một vai trò quan trọng trong việc giám sát, đánh giá đối với các vụ án. Chỉ cần làm tròn vai trò của mình, VKSND cũng có thể hạn chế được rất nhiều các vụ án gây tranh cãi.
Mặt khác, về nguyên tắc, sau khi tòa đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung, vụ án được trở lại giai đoạn điều tra, truy tố. Vì vậy, dù kết quả điều tra bổ sung như thế nào, VKS cũng phải ra quyết định truy tố bằng một bản cáo trạng khác, kể cả trường hợp sau khi Toà trả hồ sơ, VKS không đồng ý với quyết định trả hồ sơ của Toà thì VKS vẫn phải ra quyết định truy tố bằng một bản cáo trạng khác. Thực tiễn xét xử, một số VKS đã không ra một bản cáo trạng khác mà vẫn giữ nguyên bản cáo trạng cũ rồi làm công văn chuyển hồ sơ đến toà án để thụ lý lại. Cách làm này là trái pháp luật.
Nhức nhối sau những vụ oan sai
Nhiều vụ án oan, nhục hình liên tiếp xảy ra trong thời gian gần đây. (Ảnh Internet)
Theo các chuyên gia pháp lý, oan sai trong tố tụng hình sự dù ở mức độ nào cũng đều dẫn đến những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Nó không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đối với cá nhân, gia đình của họ mà còn với xã hội, với Nhà nước là không đảm bảo công lý, công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm.
Qua các vụ án oan, một đặc điểm chung rất dễ nhận thấy là luôn có những vi phạm tố tụng nghiêm trọng, kết luận vụ án luôn là kết quả của sự truy xét qua áp đặt chủ quan của người tiến hành tố tụng, có dấu hiệu mớm cung, bức cung trong quá trình điều tra. Tuy nhiên, những hành vi vi phạm này hầu như không chứng minh được hoặc không được HĐXX xem xét.
Để minh chứng cho hiện tượng này, cách đây ít lâu, trong một lần trò chuyện với PV báo Đời sống và Pháp luật, TS. Từ Văn Nhũ, nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao đã kể cho chúng tôi nghe câu chuyện về vụ án trộm cắp cổ vật xảy ra tại Bắc Giang cách đây hơn chục năm.
Trong các năm 2001 - 2003, liên tiếp xảy ra 7 vụ mất trộm tại các đình, chùa thuộc tỉnh này. Tài sản bị mất có tổng trị giá hàng trăm triệu đồng. Vụ án trộm cắp tài sảnđược công an một số huyện khởi tố, sau đó nhập về Công an tỉnh Bắc Giang điều tra. Theo TS. Nhũ, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã khởi tố, bắt tạm giam 8 nghi phạm.
Không hiểu điều tra viên khéo "động viên" kiểu gì mà nghi phạm đầu tiên bị bắt, sau khi tự nhận ăn cắp cổ vật đã... "tồng tộc" khai ra những đồng phạm khác. Lần đó, VKSND tỉnh đã truy tố các đối tượng về tội trộm cắp tài sản. TAND tỉnh đã phải mở 3 phiên tòa để xét xử các bị cáo, nhưng đều phải hoãn để điều tra bổ sung. Đến phiên tòa lần thứ tư, thẩm phán - chủ tọa phiên tòa đã tuyên, không đủ chứng cứ buộc tội các bị cáo, trả tự do cho các bị cáo ngay tại phiên toà.
Tính ra, cả 7 người bị giam oan xấp xỉ 1.000 ngày đêm với lời buộc tội "như đinh đóng cột" của VKSND tỉnh Bắc Giang. Trước tòa, những chứng cứ buộc tội của VKS đã bị các bị cáo và luật sư chỉ rõ sự thiếu căn cứ, thậm chí có những chứng cứ được coi là giả mạo khiến HĐXX phải ba lần trả hồ sơ, yêu cầu Cơ quan điều tra (CQĐT) bổ sung và tuyên bố hủy bỏ biện pháp giam giữ đối với các bị cáo.
Một điều đáng buồn, khi không chứng minh được hành vi phạm tội của các bị cáo, CQĐT bèn lấy lý do "hết thời hạn điều tra" để đình chỉ vụ án, "đá quả bóng trách nhiệm" sang VKSND tỉnh Bắc Giang(?!). Bi kịch "ngàn ngày oan trái" của các bị cáo đã chìm trong vô vọng khi CQĐT... lặng thinh. Theo TS. Nhũ, lần đó, các bị cáo may mắn được giải oan nhờ sự sáng suốt của vị "quan tòa". "Tại sao lần đó, thẩm phán lại tuyên hủy được, còn vụ ông Nguyễn Thanh Chấn thì không? Cũng tại Bắc Giang nhưng sao có "quan tòa" làm được mà có người lại không? Đó là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ", vị nguyên Phó Chánh án TAND Tối cao trăn trở.
Ngoài ra, có thể kể đến rất nhiều những trường hợp oan sai khác được ghi nhận. Đó là các vụ Bùi Minh Hải ở Đồng Nai; Nguyễn Hồng Cầu (Hải Phòng), Lương Ngọc Phi (Thái Bình); vụ ông Trần Văn Chiến ở Tiền Giang... Trong các vụ án này, có những người đã phải chấp hành bản án chung thân về tội giết người, có người mãi đến khi mãn hạn tù trở về thì hung thủ thực sự của vụ án mới lộ diện. Một danh sách dày đã cho thấy hậu quả nhức nhối của những vụ án oan, sai.
Ai phải chịu trách nhiệm?
Thời điểm tháng 10/2014, Cục Điều tra VKSNDTC đã tống đạt quyết định khởi tố bị can với ông Phạm Tuấn Chiêm (65 tuổi, nguyên thẩm phán TAND Tối cao, người là chủ tọa phiên tòa phúc thẩm xử oan ông Nguyễn Thanh Chấn). Ông Chiêm bị khởi tố về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Có lẽ đây là lần đầu tiên một thẩm phán bị khởi tố về hành vi thiếu trách nhiệm làm oan người vô tội.
Sau khi bị khởi tố, ông Chiêm đã lên tiếng trần tình: "Tôi không phải loại thoái hóa, biến chất, tham nhũng. Đây là có kẻ hữu ý làm sai lệch hồ sơ vụ án, còn tôi chỉ làm đúng bổn phận theo luật. Tôi kết án theo luật, nếu VKSND Tối cao làm đúng theo trách nhiệm thì ông Chấn đã ra tù cách đây 8-9 năm rồi. Tôi không thể làm khác được, như thế là làm sai lệch hồ sơ vụ án. Còn bên VKS thì sao? Sao họ không nghĩ đến trách nhiệm của họ? Họ có vô tâm, vô cảm không khi dân người ta kêu oan nhưng họ cũng không giải quyết gì. Nếu tôi phát hiện ra, tôi sẵn sàng đề nghị người ta phải làm, dù cho phải cởi áo từ quan. Thà tôi bị kỷ luật chứ không để người dân bị oan. Tôi đã làm hết sức rồi".
Đương nhiên, ông Chiêm không thể chối bỏ trách nhiệm của mình. Thế nhưng, những lời "gan ruột" của ông đã khiến dư luận, đặc biệt là những người làm công tác tố tụng phải suy nghĩ. Theo lẽ thông thường, bất kỳ vụ án nào đều phải trải qua các quy trình tố tụng, từ giai đoạn điều tra, truy tố cho đến xét xử. Thế nhưng, nguồn cơn dẫn đến oan, sai chính là từ giai đoạn điều tra. Bởi, CQĐT là đơn vị đầu tiên tiếp nhận, điều tra những hành vi vi phạm pháp luật. Tình trạng ép cung, mớm cung hay dùng nhục hình cũng xảy ra ở giai đoạn này.
Tuy vậy, có một thực tế mà ai cũng biết, với những người làm công tác điều tra, chẳng điều tra viên nào dại dột đến mức để lại thương tích vĩnh viễn cho nghi can. Nhiều người vẫn thường xì xầm, công an mà đánh thì đau đến chết đi sống lại nhưng chẳng bao giờ nhìn thấy vết thương.
Với những chứng tích nhục hình trên phần mềm của nghi can, thì đến khi ra tòa, chúng đã biến mất. Do đó, hầu hết những lời tố cáo bị dùng nhục hình của bị cáo đều được các thành viên của HĐXX buông một câu gọn lỏn là "không có căn cứ". Và kết cục là dẫn đến oan sai.
Theo các chuyên gia pháp lý, có nhiều nguyên nhân dẫn đến oan, sai trong tố tụng hình sự (TTHS). Thực tiễn vận hành hệ thống tư pháp hình sự thời gian qua cho thấy hệ thống pháp luật và việc thực thi pháp luật còn nhiều bất cập.
Phân tích của một chuyên gia đến từ khoa Luật (đại học Quốc gia Hà Nội), nếu những chủ thể tiến hành tố tụng cố ý lách luật, lợi dụng những kẽ hở trong pháp luật TTHS để bỏ lọt tội phạm hay làm oan người vô tội sẽ rất khó phát hiện. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân làm cho tình hình tội phạm ẩn và tiềm ẩn tăng lên đáng kể, nhiều tội phạm lọt lưới luật pháp và cũng nhiều người vô tội phải vô phúc đáo tụng đình.
Tiến sỹ Đỗ Cao Thắng, nguyên thẩm phán TAND tối cao: Có thẩm phán đọc hồ sơ rất kỹ nhưng không có khả năng phân tích
Có thể nhận thấy, tại phiên tòa sơ thẩm, kiểm sát viên chỉ làm một nhiệm vụ là đọc bản cáo trạng; tham gia thẩm vấn và trình bày luận tội đề nghị buộc tội bị cáo về toàn bộ hoặc một phần bản cáo trạng - đó là về lý thuyết. Thực tế, kiểm sát viên không được chủ động, luôn bị động, lúng túng khi bị phản biện, rất ít đối đáp lại luật sư mà thường nêu rằng, kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm như đã truy tố...
Có nghĩa rằng, những quan điểm trước đó của kiểm sát viên đã được báo cáo, được lãnh đạo cho ý kiến nên họ thường ỷ lại mà không chủ động tranh luận với luật sư cũng như những người tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên, do được sự hỗ trợ của HĐXX nên mọi việc cũng trôi chảy.
Theo quy định của pháp luật TTHS, thì trước khi đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, hồ sơ vụ án được thu thập theo quy định của BLTTHS do CQĐT và VKS thực hiện, thẩm phán hoàn toàn không được tham gia, chứng kiến các hoạt động điều tra, thu thập tài liệu của CQĐT. Do đó, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án là vô cùng quan trọng.
Mục đích của việc nghiên cứu hồ sơ vụ án không chỉ để ra một trong các quyết định quy định tại khoản 2, Điều 176, BLTTHS, mà còn phát hiện những vi phạm trong hoạt động tố tụng của CQĐT, VKS và nếu vụ án được đưa ra xét xử thì đó còn là tập tài liệu để thẩm phán chủ tọa phiên toà sử dụng trong quá trình xét xử.
Thực tiễn xét xử cho thấy, có nhiều trường hợp do nghiên cứu hồ sơ vụ án không kỹ đã dẫn đến việc ra các quyết định không đúng với khoản 2, Điều 176, BLTTHS như: Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung, nhưng vấn đề cần điều tra bổ sung đã được thu thập và có trong hồ sơ vụ án; có trường hợp do vụ án phải điều tra bổ sung nhiều lần nên trong hồ sơ vụ án có nhiều bản cáo trạng khác nhau, nhưng do nghiên cứu không kỹ nên lẽ ra phải xét xử theo bản cáo trạng A thì Toà lại xét xử theo bản cáo trạng B.
Có không ít trường hợp, thẩm phán chủ tọa phiên toà đọc hồ sơ vụ án rất kỹ nhưng lại không có khả năng phân tích, tổng hợp nên không nắm được các tình tiết của vụ án, dẫn đến ra bản án không đúng pháp luật. Trường hợp, chủ tọa phiên toà khi nghiên cứu hồ sơ vụ án đã không thể hiện tính khách quan, chỉ chú tâm nghiên cứu các tài liệu là chứng cứ buộc tội mà bỏ qua các tài liệu là chứng cứ gỡ tội cho bị cáo hoặc ngược lại...
Tóm lại, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự để chuẩn bị xét xử sơ thẩm, phúc thẩm của thẩm phán được phân công chủ tọa phiên toà còn nhiều thiếu sót, nhiều vụ án bị huỷ, bị sửa hoặc bị xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ vì chủ tọa phiên toà nghiên cứu hồ sơ vụ án không kỹ.
Luật sư Tạ Quốc Cường, Giám đốc công ty Luật hợp danh Sự thật: Tự tạo chứng cứ phải chịu trách nhiệm hình sự
Mọi người khi đã tham gia vào quá trình của tố tụng thì được đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật. Theo quy định hiện hành thì chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng và cụ thể là những người tiến hành tố tụng có quyền thu thập chứng cứ, những chứng cứ được chấp nhận là những chứng cứ đầy đủ những thuộc tính theo quy định.
Như vậy, vấn đề đặt ra ở đây là ngoài những cơ quan, người trên thì ai có quyền thu thập chứng cứ? Trên thực tế tại phiên tòa, nhiều trường hợp luật sư, trợ giúp viên pháp lý, bào chữa viên nhân dân... có đưa ra những chứng cứ tại phiên tòa nhưng nhiều khi không được công nhận, mặc dù những tình tiết đó có liên quan đến vụ án. Vì thế, trong sửa đổi BLTTHS tới đây, việc bổ sung nguyên tắc về "Thu thập, bổ sung chứng cứ", những người nào cung cấp sai sự thật, tự tạo chứng cứ phải chịu trách nhiệm hình sự.
Những vụ án nhùng nhằng
Chẳng hạn vụ Trần Minh Anh bị truy tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo cáo trạng, Anh đã tự ký tên mình và ghi tên mẹ vợ vào yêu cầu mở tài khoản, hợp đồng mở tài khoản tại công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (Hà Nội). Sau khi mẹ vợ Anh gửi tiền vào tài khoản này, Anh giả mạo chữ ký của mẹ vợ, lập giấy ủy quyền giả mạo lừa rút hơn 3 tỉ đồng. Rắc rối là trong hồ sơ còn nhiều tình tiết chưa được làm rõ như số tiền Anh rút là tiền của vợ Anh gửi cho mẹ hay là tiền của vợ chồng Anh.
Khi gửi tiền vào công ty Bảo Việt, mẹ vợ Anh có đi cùng nhưng Anh lại là người thực hiện việc gửi tiền. Khi Anh rút tiền nhiều lần, công ty biết và vẫn cho rút... TAND TP. Hà Nội đã nhiều lần trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung để xác định các chứng cứ buộc tội...
Trên thực tế, không ít trường hợp khi trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung, cơ quan trả hồ sơ phải nêu rõ những vấn đề cần bổ sung. Bất cập là ở chỗ hiện nay tòa án (hoặc VKS) cứ ra quyết định trả hồ sơ, còn có điều tra bổ sung được hay không thì lại phụ thuộc hoàn toàn vào Cơ quan điều tra. Thế mới có chuyện hồ sơ bị trả đi trả lại tới 3, 4 lần mà kết quả điều tra vẫn chẳng có gì mới so với lúc chưa được yêu cầu điều tra bổ sung.
Vụ án giết người ở Thái Bình là một ví dụ. Trước khi xét xử, TAND tỉnh đã phải trả hồ sơ đến 2 lần. Trước đó, Cơ quan điều tra đề nghị VKS truy tố 2 bị can là Nguyễn Việt Phương và Đặng Xuân Đào về tội giết người nhưng sau đó VKS tỉnh ra quyết định đình chỉ bị can đối với Nguyễn Việt Phương. Khi quyết định trả hồ sơ, TAND tỉnh yêu cầu VKS xem xét lại có việc bỏ lọt tội phạm hay không, cũng như các chứng cứ buộc tội.
Tuy nhiên, khi phiên toà sơ thẩm được mở, thay vì bổ sung những vấn đề mà tòa án đã yêu cầu thì VKS giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Đào. Cho rằng trong vụ án này có dấu hiệu vi phạm tố tụng, các căn cứ buộc tội đối với bị cáo Đào chưa đủ sức thuyết phục, TAND tỉnh lại một lần nữa phải tuyên trả hồ sơ để điều tra bổ sung...
TRẦN QUYẾT - ANH VĂN
Theo_Đời Sống Pháp Luật
Để đảm bảo khách quan, Tòa án không phải là cơ quan buộc tội! Khi đề cập tới dự thảo Bộ luật Tố tụng Hình sự sửa đổi (dự kiến được thảo luận tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII). PGS. TS. Trung tướng Trần Văn Độ nguyên Phó Chánh án TANDTC, nguyên Chánh án Toà án quân sự TW đã nêu quan điểm: "Tòa án không phải là cơ quan buộc tội!". Vì sao...