Đề xuất điều chỉnh giá điện theo mùa
Tại hội thảo “Đề án nghiên cứu cải tiến cơ cấu biểu giá bán lẻ điện Việt Nam” do Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tổ chức ngày 5-11, các chuyên gia cho rằng việc chia biểu giá bán lẻ điện sinh hoạt thành 6 bậc đã không còn phù hợp với thực tiễn
PGS-TS Bùi Xuân Hồi (Trường ĐH Bách khoa Hà Nội), đại diện nhóm tư vấn xây dựng đề án, cho rằng việc chia 6 bậc theo quy định hiện hành có phần quá chi tiết, trong khi cơ cấu tiêu dùng đã thay đổi, dẫn đến biểu giá điện không còn phù hợp với chi phí và chưa thực sự công bằng giữa các hộ tiêu dùng điện. Do đó, nhóm tư vấn đề xuất 3 phương án thay đổi, gồm 3 bậc, 4 bậc và 5 bậc khi xây dựng đề án cải tiến cơ cấu bán lẻ điện. Mặc dù đưa ra 3 phương án nhưng PGS-TS Bùi Xuân Hồi nhận định phương án biểu giá điện 5 bậc phù hợp nhất với các mục tiêu định giá.
“Với phương án 5 bậc, cách chia các bậc lần lượt là: bậc 1 từ 0 – 100 KWh; bậc 2 từ 101 – 200 KWh; bậc 3 từ 201-400 KWh; bậc 4 từ 401-700 KWh và bậc 5 từ 701 KWh trở lên. Hộ tiêu dùng bậc 2 sẽ chịu tác động ít nhất trong 3 phương án. Việc chia các bậc thang dùng nhiều điện chi tiết hơn cũng phù hợp hơn với đặc điểm tiêu dùng hiện nay, 5 bậc thang sản lượng cũng phù hợp với 5 bậc thang thu nhập của hộ gia đình” – ông Hồi cho hay.
Nhóm xây dựng Đề án nghiên cứu cải tiến cơ cấu biểu giá bán lẻ điện đề xuất chu kỳ điều chỉnh giá điện thực hiện theo mùa mưa và mùa khô Ảnh: EVN
Đại diện nhóm tư vấn cũng chỉ rõ phương án 5 bậc sẽ không gây tác động đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) vì tổng chi tiêu hộ sinh hoạt không tăng mà có mức giảm nhẹ. Tuy nhiên, chi tiêu hỗ trợ giá điện cho các hộ nghèo của Chính phủ sẽ tăng khoảng 5,7 tỉ đồng/tháng và doanh thu của EVN sẽ giảm nhẹ.
Một đề xuất khác khá quan trọng trong quá trình xây dựng đề án cải tiến cơ chế biểu giá bán lẻ điện là luật hóa chu kỳ điều chỉnh giá điện theo phương án 6 tháng một lần. Theo đó, thời điểm điều chỉnh sẽ lựa chọn theo mùa mưa và mùa khô, đồng thời tránh các thời điểm nhạy cảm, có sự thay đổi đột biến về sản lượng. Kỳ điều chỉnh giá đề xuất sẽ vào các ngày 1-3 và 1-9 hằng năm. “Vẫn có thời điểm điều chỉnh bất thường khi có sự biến động lớn về giá nhiên liệu trên thị trường quốc tế dẫn đến sự thay đổi về chi phí sản xuất và mua điện” – PGS-TS Bùi Xuân Hồi cho hay.
Nhóm tư vấn đề án khẳng định cách tính này phù hợp về mặt pháp lý, đơn giản trong tính toán bởi mùa khô và mùa mưa thì chi phí cung ứng điện khác nhau. GS-TS Trần Đình Long, Phó Chủ tịch Hội Điện lực Việt Nam, cho rằng việc thay đổi chu kỳ tính giá sẽ tiệm cận cơ chế thị trường. “Đến chu kỳ theo 2 mùa, EVN báo cáo thay đổi giá, cơ quan quản lý thông qua hoặc quy định thì thành luật để thực hiện. Cơ chế điều chỉnh giá theo đầu vào như thế nào, theo tỉ giá hay thời điểm điều chỉnh giá có thể nghiên cứu thêm” – ông Trần Đình Long cho hay.
Video đang HOT
TS Trần Văn Bình, Viện Kinh tế và Quản lý (Trường ĐH Bách khoa Hà Nội), cũng đánh giá đây là phương án phù hợp với tình hình hiện tại. Theo đó, với mùa mưa hoặc năm không hạn hán, thủy điện chiếm ưu thế thì sẽ có chi phí phát điện rẻ. Đối với mùa khô hoặc những năm hạn hán, phải huy động nguồn nhiệt điện thì chi phí sẽ cao hơn.
Điều chỉnh giá linh hoạt để không gây “sốc”
Tại hội thảo, ông Lê Hồng Tịnh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học môi trường Quốc hội, đề xuất nghiên cứu điều chỉnh giá điện tăng, giảm theo diễn biến thị trường và tương ứng với điều kiện mùa mưa, mùa khô để không gây “sốc” cho người dân, doanh nghiệp khi tăng giá. Theo ông Tịnh, các chính sách giá điện cần phải bảo đảm nguyên tắc thị trường. Giá điện khi đưa ra phải bảo đảm và hài hòa lợi ích giữa người sử dụng, doanh nghiệp đầu tư.
Minh Chiến
Theo Nguoilaodong
Từ năm 2020 Việt Nam sẽ thiếu điện?
Sau năm 2020, nguồn cung khí của Việt Nam sẽ giảm do dự trữ khí trong nước giảm và do việc chậm triển khai các mỏ khí mới. Trong khi đó, thủy điện đang đối mặt với khô hạn, lượng nước thiếu hụt 13,7 tỷm3, tương đương sản lượng điện thiếu 6,4 tỷ kWh.
Tại hội thảo về khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) diễn ra sáng 4/11, chia sẻ về nhu cầu sử dụng LNG cho ngành điện, ông Lê Hải Đăng, Vụ trưởng vụ Chiến lược phát triển, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho hay, quy hoạch Điện VII điều chỉnh, giai đoạn 2025 - 2030 Việt Nam sẽ cần xây mới các nhà máy điện khí LNG với tổng công suất từ 15.000 - 19.000 MW để đáp ứng nhu cầu điện ngày càng tăng trong nước.
Trong khi đó, theo dự báo, sau năm 2020, nguồn cung khí của Việt Nam sẽ giảm do dự trữ khí trong nước giảm và do việc chậm triển khai các mỏ khí mới. Chính vì vậy, Việt Nam cần nhập khẩu thêm LNG để bổ sung nhiên liệu cho các nhà máy điện ở khu vực phía Nam.
Theo Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp khí của Việt Nam đến năm 2025, định hướng tới năm 2035, dự báo giai đoạn 2021-2025, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu 1 - 4 tỷ m3 khí LNG mỗi năm, tăng lên 6-10 tỷ m3 mỗi năm sau đó. Khoảng 75% lượng LNG nhập khẩu sẽ được sử dụng làm nhiên liệu cho các nhà máy điện để đảm bảo an ninh cho ngành kinh tế đang phát triển của Việt Nam.
Trong khi đó, ông Nguyễn Thanh Hà, Giám đốc điều hành Trung tâm tư vấn công nghệ và đầu tư (Vietbid), tất cả những dự án khí nằm trong quy hoạch của Việt Nam hiện vẫn chưa được xây dựng. Các dự án Sơn Mỹ, Cà Mau, Cát Hải, Thái Bình mặc dù đưa vào quy hoạch nhưng chưa triển khai.
Không chỉ khí trong nước giảm, hiện nay thủy điện cũng đang phải đối mặt với việc khô hạn, thiếu nước. Ngày 30/10 mới đây, EVN đã có đã có buổi làm việc với Bộ Tài nguyên và Môi trường về phương án điều tiết các hồ chứa thủy điện trên hệ thống, trọng tâm là thủy điện trên lưu vực sông Hồng trong thời gian còn lại của năm 2019 và mùa khô năm 2020.
Ông Ngô Sơn Hải - Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết,trên lưu vực sông Hồng, hiện có 6 hồ chứa thủy điện lớn (Lai Châu, Bản Chát, Sơn La, Hòa Bình, Tuyên Quang, Thác Bà), với tổng dung tích hữu ích 18,91 tỷ m3. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, lượng nước về các hồ trên lưu vực này trong mùa lũ năm 2019 chỉ đạt khoảng 51% so với trung bình nhiều năm.
"Tính đến ngày 27/10/2019, các hồ chứa thủy điện lớn trên hệ thống mới chỉ tích được khoảng 61% tổng dung tích hữu ích (21,9/35,6 tỷ m3), lượng nước thiếu hụt 13,7 tỷ m3 (tương ứng sản lượng điện thiếu hụt khoảng 6,4 tỷ kWh)", ông Ngô Sơn Hải cho biết.
Ông Vũ Xuân Khu - Phó giám đốc Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia cho biết Theo tính toán của EVN, dự kiến năm 2020 ngành Điện sẽ tiếp tục phải đối mặt với thách thức rất lớn trong việc đảm bảo cân bằng cung cầu, dự kiến sẽ phải huy động thêm 7,9 tỷ kWh các tổ máy chạy dầu với giá điện khoảng 4.000-5.000 đ/kWh và có thể tăng lên 12,5 - 16,7 tỷ kWh trong trường hợp không thể tích được các hồ lên mực nước dâng bình thường hoặc phụ tải tăng cao hơn dự báo", ông Vũ Xuân Khu cho biết.
Chính vì vậy, ngay từ cuối tháng 8/2019, EVN đã tăng huy động tối đa các nguồn nhiệt điện, trong đó có cả nhiệt điện dầu giá cao.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành đề nghị Tổng cục Khí tượng Thủy văn, EVN tiếp tục theo dõi diễn biến tình hình lưu lượng nước về hồ thủy điện để đến 15/11, Bộ sẽ chủ trì cuộc họp với các bộ, ngành liên quan có văn bản báo cáo xin ý kiến Thủ tướng Chính phủ về tình trạng khô hạn này để có giải pháp lâu dài.
Trước đó, theo báo cáo Quy hoạch điện VII điều chỉnh của Bộ Công Thương, dự kiến trong giai đoạn 2019-2020, các nhà máy điện được đưa vào vận hành khoảng 6.900 MW, trong đó: nhiệt điện than là 2.488MW, các nhà máy thủy điện là 592 MW, các dự án năng lượng tái tạo khoảng 3.800 MW. Toàn bộ hệ thống này có thể đáp ứng nhu cầu điện toàn quốc.
Tuy nhiên, theo Bộ Công Thương đánh giá, lộ trình nêu trên chưa chắc đã khả thi, nguyên nhân do nguồn nhiệt điện chạy dầu cần phải huy động với sản lượng tương ứng 1,7 tỷ kWh vào năm 2019 và 5,2 tỷ kWh năm 2020.
Đáng lưu ý, số liệu các năm 2021 - 2025 cho thấy, mặc dù đã phải huy động tối đa các nguồn điện chạy dầu, tuy nhiên, hệ thống điện vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phụ tải khiến tình trạng thiếu điện xảy ra tại miền Nam.
Cụ thể, mức thiếu hụt tại miền Nam sẽ tăng từ 3,7 tỷ kWh năm 2021 lên gần 10 tỷ kWh năm 2022. Mức thiếu hụt cao nhất vào năm 2023 khoảng 12 tỷ kWh, sau đó giảm dần xuống 7 tỷ kWh năm 2024 và 3,5 tỷ năm 2025.
Nguyên nhân tình trạng trên chủ yếu là do hàng loạt dự án nguồn điện trong giai đoạn này bị chậm sang giai đoạn 2026-2030. Cụ thể, tiến độ các dự án khí Lô B, Các Voi Xanh đều chậm hơn so với kế hoạch từ 9 tháng đến 1 năm.
Ngoài ra, dự án nhiệt điện Kiên Giang 1 và 2 không đáp ứng tiến độ hoàn thành trong giai đoạn 2021 - 2025, thâm chí lùi sau năm 2030; dự án Ô Môn II lùi tiến độ đến năm 2025.
Điều này dẫn đến tình trạng nguồn điện dự phòng còn 20-30% trong các năm 2015-2016. Giai đoạn, 2018-2019 hầu như không còn dự phòng và sang giai đoạn 2021-2025 sẽ xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn cấp điện.
D. Thùy
Theo Infornet
Cơ bản khôi phục cấp điện cho khách hàng bị ảnh hưởng do bão số 5 EVN dự kiến đến hết ngày 31/10 sẽ cơ bản khôi phục cấp điện cho các khách hàng bị ảnh hưởng do bão số 5, trừ những khu vực ngập sâu, chia cắt buộc phải tạm thời cắt điện để đảm bảo an toàn. Công nhân kiểm tra thiết bị máy biến áp. Nguồn: Mai Phương/BNEWS/TTXVN Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN)...