Đề nghị sửa đổi quy định để nhiều người dân, doanh nghiệp được hỗ trợ từ gói 26.000 tỉ đồng
Bộ Lao động – thương binh và xã hội vừa có tờ trình gửi Chính phủ đề nghị sửa đổi, bổ sung nghị quyết 68 (gói 26.000 tỉ đồng) về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch COVID-19.
Tờ trình của Bộ LĐ-TB&XH cắt giảm tối đa các thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian để hỗ trợ kịp thời, hiệu quả cho người lao động – Ảnh: HÀ QUÂN
Tại cuộc họp trực tuyến Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 ngày 29-8, Bộ trưởng Bộ Lao động – thương binh và xã hội Đào Ngọc Dung cho biết, một số địa phương chậm triển khai các chính sách của nghị quyết 68.
Cụ thể, có 2 tỉnh chưa bố trí được ngân sách để chi hỗ trợ là Bến Tre và Vĩnh Long; 9 tỉnh chưa chi chính sách tạm hoãn hợp đồng lao động, tạm ngừng việc là Bà Rịa – Vũng Tàu, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Phú Yên.
5 tỉnh thành chưa chi hỗ trợ lao động phải ngừng việc là: Tiền Giang, Trà Vinh, Cần Thơ, Đà Nẵng, Phú Yên và 3 tỉnh thành chưa chi hỗ trợ thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội là Bà Rịa – Vũng Tàu, Bến Tre và Cần Thơ.
Từ thực tế, Bộ Lao động – thương binh và xã hội đã nghiên cứu, đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ việc mở rộng đối tượng, quy mô và thời gian được hỗ trợ phù hợp với tình hình và khả năng chi trả của ngân sách nhà nước.
Tờ trình của Bộ Lao động – thương binh và xã hội sửa đổi, bổ sung nghị quyết 68 có một số điểm đáng chú ý như điều kiện hưởng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp có doanh thu của quý liền kề trước thời điểm đề nghị hỗ trợ đào tạo việc làm cho lao động từ 10% xuống 5%.
Lao động thuộc diện tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để phòng, chống dịch COVID-19 hoặc có địa điểm áp dụng chỉ thị 16 nhận hỗ trợ một lần như sau: “Từ 15 ngày liên tục trở lên đến dưới 1 tháng mức 1,855 triệu đồng/người; từ 1 tháng trở lên mức 3,71 triệu đồng/người”.
Lao động chấm dứt hợp đồng lao động khi làm ở nơi thực hiện chỉ thị 16 nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp được hỗ trợ 3,71 triệu đồng/người/một lần duy nhất.
Video đang HOT
Trong khi đó, hộ kinh doanh có đăng ký thuế phải dừng hoạt động từ 15 ngày liên tục trở lên trên địa bàn áp dụng chỉ thị 16 được bổ sung diện hỗ trợ 3 triệu đồng/hộ.
Ngoài ra, điều kiện “người sử dụng lao động không có nợ xấu tại tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại thời điểm đề nghị vay vốn” để hưởng chính sách cho vay ngừng việc có thể cắt giảm.
Người sử dụng lao động tại nơi thực hiện chỉ thị 16 được vay trả lương phục hồi sản xuất theo quy định nghị quyết 68 và không phải đáp ứng điều kiện “không có nợ xấu tại tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại thời điểm đề nghị vay vốn”.
Với chính sách dành cho lao động tự do và một số đối tượng đặc thù khác, dự thảo tờ trình bổ sung nguyên tắc hỗ trợ từ ngân sách như sau: “Ngân sách trung ương hỗ trợ 40% chi cho các đối tượng trên đối với các tỉnh chưa tự cân đối được ngân sách”.
Theo Bộ Lao động – thương binh và xã hội, cả nước đã có hơn 15 triệu người được thụ hưởng chính sách từ nghị quyết 68 với số tiền 8.400 tỉ đồng, 1,2 triệu lao động tự do thụ hưởng 2.180 tỉ đồng, 37.000 hộ sản xuất kinh doanh được hỗ trợ.
Trong đó, các tỉnh phía Nam và một số tỉnh miền Trung chiếm 72%, riêng TP.HCM đã dành trên 3.000 tỉ tiền mặt hỗ trợ lao động tự do, người yếu thế…
Khơi dậy ý chí thoát nghèo ở vùng nông thôn miền núi - Bài 2: Đi tìm nguyên nhân dẫn đến tái nghèo
Ở một số nơi đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn tập quán canh tác lạc hậu, thiếu kiến thức về khoa học, kỹ thuật.
Một số thể chế, chính sách phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến khu vực này vẫn còn bất cập, thiếu đồng bộ, nguồn lực đầu tư hạn hẹp, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Theo Báo cáo của Chính phủ, số dân là đồng bào dân tộc thiểu số chỉ chiếm 14,7% dân số của cả nước, nhưng tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm đến 57,1% số hộ nghèo cả nước.
Gia đình chị Giàng Xa Ninh, xã Ma Li Pho, huyện Phong Thổ (Lai Châu) có 2 héc ta chuối, mỗi năm thu hoạch hơn 100 triệu đồng. Ảnh: Việt Hoàng/TTXVN.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn 2,75% năm 2020
Những năm qua, cấp ủy và chính quyền các cấp luôn quan tâm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cùng với sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2021 đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận.
Theo Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của toàn dân, công tác giảm nghèo đã đạt được những thành tựu nổi bật. Chính sách pháp luật ngày càng hoàn thiện, ngân sách nhà nước huy động nguồn lực xã hội ngày càng tăng, ý chí vươn lên của người dân được nâng lên, các tấm gương thoát nghèo và các điển hình ngày càng nhiều.
Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn 2,75% năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) giảm 4%/năm. Nhiều huyện nghèo, xã nghèo đặc biệt khó khăn được đầu tư cải thiện hệ thống cơ sở thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Hộ nghèo được hỗ trợ sinh kế, tạo việc làm, tăng thu nhập được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch. Đặc biệt sự chuyển biến về nhận thức và hành động của một bộ phận người nghèo đã xuất hiện một số điển hình làm đơn tự nguyện xin thoát nghèo.
"Chúng ta đã trải qua 6 lần điều chỉnh tiêu chí giảm nghèo. Từ tiêu chí về bảo đảm lương thực nhằm có ăn, có mặc, đến xóa đói giảm nghèo, rồi có mức sống tối thiểu... và hiện nay đang áp dụng chuẩn nghèo đa chiều. Chính vì vậy mà Việt Nam là một trong 30 quốc gia trên thế giới và cũng là nước đầu tiên trong khu vực châu Á áp dụng phương châm "không để ai bị bỏ lại phía sau", sớm hoàn thành mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo trên thế giới", Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho hay.
Cũng theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, giai đoạn 2021-2025 chúng ta đặt mục tiêu yêu cầu cao về giảm nghèo đa chiều, bình quân cả nước giảm từ 1 - 1,5% trong năm. Chương trình quốc gia về giảm nghèo chú ý đến địa bàn là hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo trên phạm vi toàn quốc. Trong đó, có cả các đối tượng nghèo mới phát sinh vì các lý do khác nhau, kể cả những ảnh hưởng do COVID-19, đối tượng nghèo có cả ở nông thôn và thành thị. Chú trọng các địa bàn còn nhiều khó khăn.
Mặc dù chính sách giảm nghèo đã có nhiều kết quả, tuy nhiên vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, đó là tốc độ giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo vẫn nằm trong nhóm cao nhất của cả nước. Một bộ phận các hộ đã thoát nghèo, nhưng ở những nơi thường xuyên chịu tác động của thiên tai vẫn có nguy cơ cao tái nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào DTTS vẫn còn ở mức cao và thu nhập bình quân đầu người thấp.
Giải bài toán thoát nghèo bền vững
Bà Âu Thị Mai, dân tộc Sán Chay, đại biểu Quốc hộ tỉnh Tuyên Quang cho rằng, nguyên nhân của việc giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững là do nguồn lực thực hiện chương trình chưa đảm bảo, còn dàn trải, manh mún, các mô hình sản xuất nông nghiệp được hỗ trợ nhưng hiệu quả kết nối giữa sản xuất với tiêu thụ sản phẩm phát triển theo chuỗi giá trị còn hạn chế. Các mục tiêu về hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, sử dụng nước, hợp vệ sinh, sử dụng điện lưới quốc gia chưa đạt yêu cầu đề ra. Bên cạnh đó nhiều hộ gia đình còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào nhà nước, chưa có ý thức vươn lên thoát nghèo.
Đồng quan điểm này, bà Triệu Thị Huyền, dân tộc Dao, đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái cho rằng nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do khu vực miền núi phía Bắc có địa hình đồi núi chia cắt mạnh lại thường xuyên chịu tác động của thiên tai. Hơn nữa, hạ tầng kinh tế - xã hội thiếu đồng bộ, giao thông đi lại khó khăn, diện tích đất canh tác hạn chế, người dân còn thiếu tư liệu sản xuất. Trình độ dân trí chưa đồng đều, chất lượng nhân lực thấp.
Cán bộ, chiến sỹ Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lai Châu giúp nhân dân huyện Phong Thổ làm đường giao thông nông thôn. Ảnh: Việt Hoàng/TTXVN.
Tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV khi thảo luận về Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, nhiều đại biểu Quốc hội đồng tình khi Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 kết cấu với 6 dự án, 11 tiểu dự án; trong đó bổ sung các tiểu dự án để giải quyết các chiều thiếu hụt dịch vụ xã hội như nhà ở cho hộ nghèo, cận nghèo trên địa bàn huyện nghèo, cải thiện dinh dưỡng cho người nghèo là cần thiết.
Để Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đạt hiệu quả, đồng thời khắc phục những hạn chế trong giai đoạn vừa qua, một số đại biểu Quốc hội cho rằng Chính phủ, các cấp, các ngành cần có giải pháp căn cơ, tập trung giải quyết những vấn đề bức thiết về đời sống của người dân như tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt của đồng bào DTTS vùng nghèo và hộ nghèo ở các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn. Đây là điều kiện tiên quyết trong công tác giảm nghèo bền vững.
Bà Âu Thị Mai, đại biểu Quốc hội tỉnh Tuyên Quang đề nghị cần tiếp tục tích hợp ban hành các chính sách hỗ trợ giảm nghèo trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội theo hướng hỗ có điều kiện. Chỉ hỗ trợ trực tiếp đối với các chính sách có ảnh hưởng lớn đến an sinh xã hội như giáo dục, y tế. Còn lại các chính sách khác hỗ trợ bằng hình thức cho vay có hoàn trả. Đồng thời, tiếp tục tăng mức hỗ trợ cho vay tín dụng ưu đãi và kéo dài thời hạn vay vốn đối với lãi suất cho một số loại hình sản xuất có chu kỳ như: Chăn nuôi trâu, bò, trồng rừng và các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng nông thôn. Thực tế hiện nay có nhiều hộ gia đình có nhu cầu vay vốn rất lớn nhưng tâm lý do lo ngại rủi ro, chi phí sản xuất cao, lợi nhuận thấp, không có khả năng trả nợ.
Phải đặt người nghèo ở vị trí chủ thể trung tâm của công tác giảm nghèo. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền mục tiêu giảm nghèo đến các cấp, các ngành, mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là người nghèo. Khơi dậy ý thức tự chủ, vươn lên thoát nghèo, loại bỏ tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào chính sách của nhà nước mà phải sử dụng hiệu quả nguồn lực của nhà nước, của cộng đồng để vươn lên thoát nghèo.
Trung ương cần tiếp tục dành nguồn lực đầu tư cho các tỉnh miền núi, trong đó ưu tiên đầu tư hạ tầng kết nối giao thông, kết nối vùng, liên vùng và kết nối các tỉnh miền núi, các huyện nghèo trong vùng. Hạ tầng điện lưới quốc gia theo thống kê thì hiện nay cả nước còn khoảng 900.000 hộ chưa được sử dụng điện lưới quốc gia. Các công trình dự báo, cảnh báo, phòng và chống thiên tai tiếp tục bố trí nguồn lực sớm hoàn thiện. Sắp xếp và bố trí lại dân cư, di dân khỏi vùng nguy cơ cao lũ ống, lũ quét và sạt lở đất, nhằm hạn chế mức thấp nhất ảnh hưởng của thiên tai tới đời sống và sản xuất của người dân.
Khu vực miền núi phía Bắc là nơi đồng bào DTTS sinh sống, là địa bàn có tỷ lệ che phủ rừng cao so với bình quân chung của cả nước nhưng lại là lõi nghèo, sinh kế của người dân chủ yếu gắn với kinh tế rừng. Vì vậy, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, góp phần bảo vệ tài nguyên rừng, môi trường sinh thái đầu nguồn, trung ương cần có chính sách đặc thù hỗ trợ các địa phương quản lý, phát triển, bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước, phát triển kinh tế - xã hội để người dân sống được bằng nghề rừng và làm giàu từ rừng.
Theo thống kê hiện trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn khoảng 58.000 hộ thiếu đất ở, đất sản xuất. Trên 300.000 hộ thiếu nước sinh hoạt.
Bài cuối: Chuyển người nghèo từ đối tượng sang chủ thể
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là Chủ tịch Ủy ban Quan hệ lao động Ngày 18/8, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam ký ban hành Quyết định số 1413/QĐ-TTg kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và hoạt động của Ủy ban Quan hệ lao động. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là Chủ tịch Ủy ban Quan hệ lao động. Ảnh: TTXVN Quyết định nêu rõ,...