Đề nghị Quốc hội phê chuẩn bổ sung thêm 1 Phó Thủ tướng
Chiều 7/11, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đã họp phiên toàn thể thẩm tra Tờ trình của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng thêm số Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ khóa XIII.
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trả lời phỏng vấn bên hành lang Quốc hội (Nguồn: TTXVN)
Tại cuộc họp, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thay mặt Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình của Thủ tướng Chính phủ về việc thêm tăng số Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ khóa XIII.
Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIII, Thủ tướng Chính phủ đã có Tờ trình số 39/TTr-TTg trình Quốc hội phê chuẩn cơ cấu tổ chức Chính phủ và số lượng 4 Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ khóa XIII.
Tại Tờ trình này của Thủ tướng Chính phủ đã nêu rõ việc bổ nhiệm Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi, chỉ đạo công tác đối ngoại, đồng thời trực tiếp làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là rất cần thiết, nhưng cần có thêm thời gian chuẩn bị, khi có đủ điều kiện sẽ trình Quốc hội xem xét phê chuẩn sau. Trên cơ sở Tờ trình này, Quốc hội đã ra Nghị quyết số 03/2011/QH13 phê chuẩn đề nghị này của Thủ tướng Chính phủ.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng đã phân công các Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng theo dõi, chỉ đạo các khối công tác cụ thể, riêng khối công tác đối ngoại do Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo. Nay đã đủ điều kiện, Thủ tướng Chính phủ đề nghị Quốc hội phê chuẩn việc bổ sung thêm 1 Phó Thủ tướng giúp Thủ tướng theo dõi chỉ đạo công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Qua thảo luận, Ủy ban Pháp luật nhất trí với Tờ trình của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng thêm số Phó Thủ tướng Chính phủ nhiệm kỳ khóa XIII từ 4 như hiện nay lên 5.
Theo Dantri
Giữ nguyên tên nước CHXHCN Việt Nam
Loại ý kiên thứ nhât đa số ý kiến đề nghị tiếp tục quy định tên nước là Công hòa xã hôi chủ nghĩa Viêt Nam.
Video đang HOT
"Báo cáo về viêc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến nhân dân" đề nghị giữ tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chiều 20/5, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý trình bày trước Quốc hội "Báo cáo về viêc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trên cơ sở ý kiến nhân dân".
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Báo cáo cho biết, về tên nước qua tổng hợp, có nhiều ý kiên nhân dân đóng góp về vấn đề này. Nhìn chung các ý kiến cho rằng Điêu 1 của Dự thảo đã thê hiên rõ những tiêu chí cơ bản của Nhà nước như tên nước, hình thức chính thể, chủ quyền quốc gia. Riêng vê tên nước, còn có các loại ý kiên như sau:
Loại ý kiên thứ nhât đa số ý kiến đề nghị tiếp tục quy định tên nước là Công hòa xã hôi chủ nghĩa Viêt Nam. Tên gọi này ra đời trong bối cảnh nước ta vừa hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định rõ con đường, mục tiêu xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Tên gọi này đã được sử dụng ổn định từ tháng 7 năm 1976 đến nay, đã được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Hơn nữa, việc thay đổi tên nước trong thời điểm hiện nay sẽ dẫn đến những hệ quả không có lợi, thậm chí có thể bị xuyên tạc là ta đang xa rời mục tiêu, con đường lên chủ nghĩa xã hội và làm phát sinh nhiều thủ tục hành chính, gây tốn kém, phức tạp.
Loại ý kiên thứ hai đê nghị lấy lại tên gọi Viêt Nam dân chủ công hòa vì tên gọi này gắn liên với sự ra đời của chính thê công hòa đâu tiên ở nước ta, là thành quả của cuộc cách mạng giành độc lập tháng Tám năm 1945. Tên gọi này đã được chính thức ghi nhận trong Bản tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên đọc ngày 02 tháng 9 năm 1945 và tiếp tục được khẳng định trong Hiên pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, thể hiện rõ thể chế chính trị của nước ta là cộng hòa, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ.
Ý kiến này cho rằng, việc lựa chọn tên nước là Việt Nam dân chủ cộng hòa không làm ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hôi của nước ta vì Lời nói đầu cũng như các quy định khác của Dự thảo đêu khẳng định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, cũng có ý kiến đề nghị một số tên gọi khác.
Trên cơ sở nghiên cứu các ý kiến nêu trên, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, tên nước là Cộng hòa xã hộichủ nghĩa Việt Nam hoặc Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thể hiện rõ chính thể của nước ta là cộng hòa, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ.
Tuy nhiên, việc giữ nguyên tên nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhằm tiếp tục khẳng định mục tiêu, con đường xây dựng và phát triển đất nước lên chủ nghĩa xã hội, bảo đảm tính ổn định, tránh việc phải thay đổi về quốc huy, con dấu, quốc hiệu trên các văn bản, giấy tờ. Hơn nữa, trải qua 37 năm, tên gọi này đã trở nên quen thuộc đối với nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế.
Giữ Điều 4
Báo cáo cho biết về cơ bản, ý kiến nhân dân tán thành việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, tán thành bổ sung quy định Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Qua tổng hợp, nhân dân tập trung góp nhiều ý kiến về cách thể hiện Điều 4, cụ thể như sau:
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và là người phát ngôn của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 Phan Trung Lý
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với nội dung Điều 4 như trong Dự thảo đã công bố vì đã thể hiện một cách đầy đủ các nội dung và tinh thần của Cương lĩnh, Điều lệ Đảng về bản chất giai cấp, nền tảng tư tưởng của Đảng.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị viết lại một cách khái quát, cô đọng tránh trùng lặp; chỉ cần khẳng định vai trò của Đảng trong Hiến pháp là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, còn những nội dung quy định về bản chất, nền tảng tư tưởng của Đảng đã được khẳng định trong Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, không cần thiết phải quy định lại trong Hiến pháp. Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị không quy định Điều 4 vì Đảng là tổ chức chính trị, được tổ chức và hoạt động theo Cương lĩnh và Điều lệ.
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội về vấn đề này như sau: Trước hết, cần khẳng định rằng, việc giữ Điều 4 quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng là cần thiết. Quy định này là kế thừa quy định tại Điều 4 của Hiến pháp hiện hành, khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta. Dự thảo đã bổ sung quy định về bản chất của Đảng theo tinh thần mới của Cương lĩnh, đó là: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng". Chính do bản chất và nền tảng tư tưởng của Đảng như vậy nên nhân dân ta mới thừa nhận vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hộicủa Đảng và ghi nhận vào Hiến pháp - đạo luật cơ bản của Nhà nước.
Do vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội cho giữ Điều 4 như Dự thảo đã công bố.
Không đưa vân đê ban hành luật về Đảng
Có ý kiên đề nghị làm rõ hơn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, cơ chế chịu trách nhiệm của Đảng và cơ chế để nhân dân giám sát Đảng. Ý kiến này đề nghị cần có Luật về Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm tạo cơ sở pháp lý cho Đảng thực thi vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình đối với Nhà nước và xã hội, tạo sự minh bạch trong hoạt động của Đảng, tạo cơ sở cho nhân dân giám sát hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên.
Về vấn đề này, Ủy ban DTSĐHP nhận thấy, Đảng ta là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo thông qua Cương lĩnh, chiên lược, các định hướng và chính sách, chủ trương lớn của mình... Cách thức, nội dung lãnh đạo được thê hiên linh hoạt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Bên cạnh đó, quy định mọi tổ chức Đảng, đảng viên hoạt đông trong khuôn khô Hiên pháp và pháp luât hiện đã là một bảo đảm quan trọng để nhân dân có điều kiện giám sát, giúp cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh hơn, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Hơn nữa, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cũng là vấn đề đang được tổng kết, nghiên cứu. Vì vậy, Ủy ban DTSĐHP đề nghị Quốc hội không đưa vân đê ban hành luật về Đảng vào Dự thảo Hiên pháp.
"Sở hữu toàn dân" về đất đai
Báo cáo cho biết qua tổng hợp, có 3 loại ý kiến về sở hữu đất đai như sau:
Loại ý kiến thứ nhất đa số ý kiến tán thành với quy định của Dự thảo. Loại ý kiến này cho rằng quy định đất đai, các tài nguyên thiên thiên, các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý... thuộc sở hữu toàn dân là phù hợp.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị đa dạng hóa sở hữu đất đai, trong đó có sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng và sở hữu tư nhân vê đât ở. Ý kiến này cho rằng quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân là không rõ về chủ thể sở hữu.
Loại ý kiến thứ ba đề nghị tách thành hai điều, một điều quy định về sở hữu toàn dân, một điều quy định về sở hữu nhà nước. Ý kiến này cho rằng, cần có sự phân biệt rạch ròi giữa đất đai là tài nguyên quốc gia - thuộc sở hữu toàn dân với những đất đai mà toàn dân đã giao cho Nhà nước - một chủ thể cụ thể quản lý, sở hữu.
Ủy ban DTSĐHP báo cáo Quốc hội vấn đề này như sau: Quy định đất đai, các tài nguyên thiên thiên, các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý... thuộc sở hữu toàn dân là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã được xác định từ năm 1980 đến nay.
Vấn đề sở hữu về đất đai không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị - xã hội. Để làm rõ hơn nội dung này, Dự thảo đã xác định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Vì vậy, đề nghị giữ nguyên cách dùng khái niệm "sở hữu toàn dân" và không quy định đa sở hữu về đất đai.
Theo xahoi
Không hiến định kinh tế nhà nước là chủ đạo Chiều 29.12, Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đã họp báo triển khai việc lấy ý kiến nhân dân về bản dự thảo sửa đổi. Chủ trì buổi họp báo, ông Phan Trung Lý - Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Trưởng ban Biên tập dự thảo Hiến pháp sửa đổi - nhắc lại mục đích việc...