Để không lãng phí nguồn nhân lực
Từ đầu năm đến nay, Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội đã tổ chức thành công hai phiên giao dịch việc làm dành cho người lao động (NLĐ) đã từng làm việc tại Hàn Quốc trở về. Đây là một trong những hoạt động tích cực nhằm kêu gọi, thuyết phục NLĐ đang làm việc tại Hàn Quốc trở về nước đúng thời hạn. Và hơn nữa, việc này cũng nhằm tận dụng được nguồn lao động có chất lượng cao trở về từ nước ngoài.
Phiên giao dịch việc làm dành cho người đã từng làm việc tại Hàn Quốc thu hút đông đảo sự quan tâm của doanh nghiệp và người lao động.
Hơn 700 NLĐ đã tìm đến phiên giao dịch việc làm với mong muốn tìm được việc làm tương xứng với kỹ năng, kinh nghiệm mà họ đã từng làm tại Hàn Quốc. Theo đánh giá của các nhà tuyển dụng, hầu hết ứng viên đều đáp ứng được nhu cầu của các nhà tuyển dụng trong nước bằng kinh nghiệm làm việc tại Hàn Quốc, có kỹ năng nghề và có thể giao tiếp bằng tiếng Hàn.
Bà Hoàng Thị Đào – đại diện cho Công ty Kyeong cheon AE in Business Link (KBL) cho biết, những ứng viên có kinh nghiệm làm việc ở Hàn Quốc là một nguồn nhân lực quý giá đối với doanh nghiệp. Ở phiên giao dịch này, khả năng giao tiếp bằng tiếng Hàn của các ứng viên tốt hơn trước, kỹ năng nghề nghiệp được đánh giá tốt so với mặt bằng chung. Chính vì vậy, nhiều nhà tuyển dụng đã sẵn sàng trả mức lương khá tương xứng theo từng vị trí từ 6 đến 10 triệu đồng/tháng. Theo nhiều NLĐ, mức lương mà các doanh nghiệp đưa ra lần này đa số ở vị trí phiên dịch trong các xưởng may, xưởng cơ khí là có thể chấp nhận được.
Anh Tống Ngọc Kiên, ở TP Bắc Giang cho rằng, ở thời điểm khó khăn về kinh tế nói chung, khó khăn trong tìm việc nói riêng thì con số này có thể chấp nhận. Anh Kiên vừa trở về từ Hàn Quốc sau 4 năm làm việc ở nước này. Mức lương ở Hàn Quốc trước đây của anh Kiên từ 35 đến 45 triệu đồng/tháng ở vị trí vận hành máy trong một công ty cơ khí. Tuy lương cao nhưng mức chi tiêu hằng tháng lại nhiều hơn công nhân khác nên sau 4 năm số tiền tích lũy không được bao nhiêu. Khi về nước, anh đã từng tìm kiếm việc làm tại Bắc Giang nhưng rất khó khăn do không có mức lương hợp lý. Vì vậy, anh Tống Ngọc Kiên đã tìm đến phiên giao dịch việc làm này và mức lương khởi điểm mong muốn của anh là 8 triệu đồng/tháng.
Về nước đã gần 2 năm nay sau khi hết hạn hợp đồng làm việc tại Hàn Quốc, chị Nguyễn Việt Hà (huyện Thạch Thất – Hà Nội) luôn tìm đến các phiên giao dịch việc làm dành cho lao động trở về từ Hàn Quốc để thay đổi cơ hội làm việc. Dù đã làm công việc phiên dịch cho một xưởng may ở huyện Thạch Thất với mức lương tương đương 8 triệu đồng/tháng nhưng chị vẫn mong muốn tìm được vị trí làm việc nhàn hơn, lương cao hơn. Và đến với phiên giao dịch này, chị Việt Hà nộp hồ sơ vào một công ty Hàn Quốc vị trí phiên dịch cơ khí, mức lương khởi điểm 8 triệu đồng/tháng. Hy vọng trong quá trình làm việc chị sẽ được tăng lương cao hơn xét theo năng lực thực tế.
Bà Vũ Thị Thanh Liễu, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội cho biết, những năm gần đây, xuất khẩu lao động được nhiều người lựa chọn để cải thiện cuộc sống gia đình. Đặc biệt, vì thị trường Hàn Quốc cho thu nhập cao, môi trường làm việc thuận lợi nên nhiều NLĐ khi hết hạn hợp đồng không chịu trở về nước, cư trú bất hợp pháp. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển thị trường xuất khẩu lao động Hàn Quốc của Việt Nam. Với mong muốn giúp NLĐ về nước tìm được việc làm đúng năng lực, giảm ở mức thấp nhất việc về nước sai thời hạn, từ năm 2012 Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội đã tổ chức nhiều phiên giao dịch việc làm dành riêng cho NLĐ trở về từ Hàn Quốc. Đặc biệt, từ đầu năm 2015 đến nay đã có hai phiên giao dịch dành riêng cho NLĐ đã từng làm việc tại Hàn Quốc. Dự kiến, cuối tháng 10-2015, trung tâm sẽ tổ chức phiên giao dịch thứ 3 tại tỉnh Bắc Ninh để kết nối rộng khắp NLĐ từ các tỉnh, thành phía Bắc.
Nhiều NLĐ tỏ ra tiếc nuối với mức lương và môi trường làm việc tại Hàn Quốc khi về nước. Tuy nhiên, khi về nước, họ cũng thừa nhận những việc làm tích cực mà các cơ quan chức năng của Việt Nam đã thực hiện nhằm giúp họ có công việc mới tương xứng. Tuy nhiên, theo bà Vũ Thị Thanh Liễu, một số lao động đã đòi hỏi mức lương quá cao so với yêu cầu công việc. Vì vậy, không ít NLĐ chưa thể tìm được việc làm phù hợp. Kim Vũ
Video đang HOT
Theo_Hà Nội Mới
Nghiên cứu cơ chế hút nhân tài cho QĐND Việt Nam
Các đại biểu Quốc hội cho rằng, cần tiếp tục nghiên cứu để có những quy định hợp lý hơn trong Luật nghĩa vụ quân sự nhằm hút nhân tài cho QĐNDVN.
Các đại biểu Quốc hội cho rằng, cần tiếp tục nghiên cứu để có những quy định hợp lý hơn trong Luật nghĩa vụ quân sự nhằm hút nhân tài cho QĐNDVN.
Sáng 23/9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật Quân nhân chuyên nghiệp và công nhân, viên chức quốc phòng với những quy định hợp lý hơn nhằm thu hút nhân tài cho quân đội.
Các ý kiến cơ bản tán thành với tờ trình của Chính phủ, tuy nhiên, nhiều đại biểu cho rằng cần tiếp tục nghiên cứu để có những quy định hợp lý hơn về một số nội dung, như hạn tuổi, cấp bậc quân hàm của QNCN và CNVCQP... để có những cơ chế mở thu hút nhân tài cho quân đội.
Sự cần thiết ban hành luật
Luật Nghĩa vụ quân sự và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến QNCN và CNVCQP được ban hành trong thời gian qua đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng đội ngũ QNCN và CNVCQP, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng trình bày tờ trình của Chính phủ về dự án Luật QNCN và CNVCQP.
Trình bày tờ trình của Chính phủ về dự án Luật QNCN và CNVCQP, Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết, trước yêu cầu phát triển về mọi mặt của đất nước và nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân trong tình hình mới, các quy định của pháp luật hiện hành có liên quan đến QNCN và CNVCQP đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung. Cụ thể, văn bản pháp luật hiện hành chưa quy định đầy đủ về vị trí, chức năng của QNCN và CNVCQP trong tổ chức biên chế của Quân đội. Nên trong giai đoạn vừa qua việc quản lý, sử dụng đội ngũ QNCN và CNVCQP có lúc, có thời điểm hiệu quả chưa cao, lãng phí nguồn nhân lực. Pháp luật hiện hành quy định về hạn tuổi phục vụ của QNCN đến nay không còn phù hợp với yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân. Việc quy định QNCN được nghỉ hưu ở độ tuổi 50 trở xuống khi tuổi đời còn trẻ, có sức khỏe, trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ giỏi đang cần cho Quân đội đã gây lãng phí nguồn nhân lực, ảnh hưởng đến chất lượng xây dựng Quân đội. Mặt khác, theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, để được hưởng mức lương hưu là 75%, người lao động phải có từ 35 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên đối với nam và 30 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên đối với nữ. Việc QNCN chỉ phục vụ tại ngũ đến 50 tuổi như quy định hiện hành sẽ không đủ điều kiện để được hưởng mức lương hưu là 75% do chưa đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội, nên đã ảnh hưởng lớn đến tâm tư nguyện vọng, đời sống của QNCN và gia đình.
Mặt khác, quy đinh cua phap luât hiên hanh vê chê đô, chinh sach đôi vơi QNCN và CNVCQP chưa bao đam công băng giưa cac đối tượng phuc vu trong Quân đôi; chưa thê hiên đươc tinh đăc thu quân sư là ngành lao động đặc biệt. Là công dân phục vụ trong Quân đội, song chinh sach vê tiên lương của CNVCQP chỉ được thưc hiên như công chức, viên chức nhà nước co cung vi tri, chưc danh ma không đươc hương chế độ, chính sách theo tinh chât đặc thù quân sự và chế độ phụ cấp thâm niên như một số ngành nghề và các đối tượng phục vụ khác trong Quân đội.
QNCN là đối tượng phục vụ tại ngũ theo chế độ tự nguyện, không thuôc đôi tương điêu chinh cua Luât Nghia vu quân sư, cần phải có văn bản pháp luật quy định riêng về chế độ phục vụ của QNCN.
Ngoài ra, CNVCQP là thành phần trong tổ chức biên chế của Quân đội nhân dân, nhưng chưa có văn bản pháp luật quy định, điều chỉnh riêng. Mọi chế độ, chính sách đối với CNVCQP đều phải vận dụng theo các văn bản pháp luật của Nhà nước như: Bộ luật Lao động, Luật cán bộ, công chức, Luật viên chức, Luật bảo hiểm xã hội.
Từ thực tiễn nêu trên, việc xây dựng dự án Luật QNCN và CNVCQP là cần thiết.
Cấp bậc quân hàm của QNCN như thế nào là phù hợp?
Báo cáo Thẩm tra sơ bộ dự án Luật QNCN và CNVCQP nêu rõ Thường trực Uỷ ban Quốc phòng và An ninh (UBQPAN) tán thành về sự cần thiết ban hành Luật QNCN và CNVCQP. Trong phiên thảo luận, các ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng cơ bản tán thành sự cần thiết ban hành luật.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng nhấn mạnh đến việc tạo điều kiện thu hút nhân tài cho quân đội.
Thường trực UBQPAN cũng nhất trí với phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng như dự thảo Luật Chính phủ trình; nhất trí với việc quy định "Luật này không áp dụng đối với người lao động làm việc theo chế độ hợp đồng lao động trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân" tại Điều 2.
Thường trực UBQPAN cho rằng, dự thảo Luật về cơ bản đã xác định rõ vị trí, chức năng của QNCN, CNVCQP. Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị xem xét lại quy định CNQP, VCQP không phải là quân nhân nhưng thuộc tổ chức, biên chế Quân đội nhân dân đã hợp lý chưa và thể hiện lại cho phù hợp với tổ chức, biên chế của quân đội và Bộ Quốc phòng; có ý kiến đề nghị gộp 3 điều này thành một điều và quy định thành 3 khoản riêng cho từng đối tượng.
Về hạn tuổi phục vụ tại ngũ của QNCN, dự thảo quy định hạn tuổi phục vụ tại ngũ cao nhất của QNCN theo cấp bậc quân hàm: Cấp uý QNCN: Nam 50 tuổi, nữ 50 tuổi; Thiếu tá QNCN: Nam 52 tuổi, nữ 52 tuổi; Trung tá QNCN: Nam 54 tuổi, nữ 54 tuổi; Thượng tá QNCN: Nam 56 tuổi, nữ 55 tuổi.
Đa số ý kiến Thường trực UBQPAN tán thành về han tuôi phuc vu cua QNCN như quy định tại dự thảo Luật, sẽ khăc phuc nhưng han chê, bât câp của quy đinh hiên hanh, đap ưng yêu câu, nhiêm vu va tranh lang phi nguôn nhân lưc, nhât la nguôn nhân lưc co chât lương cao. Tuy nhiên, Thường trực UBQPAN và tại phiên thảo luận có ý kiến đề nghị cần xem xét để bảo đảm tương thích với độ tuổi phục vụ của sĩ quan. Một số ý kiến đề nghị nâng độ tuổi của cấp úy QNCN (cả nam và nữ) lên 53 tuổi để được hưởng lương hưu là 75% vì số lượng QNCN cấp úy nhiều và đề nghị thống nhất một độ tuổi phục vụ đối với cấp thiếu tá và trung tá (cả nam và nữ) là 54 tuổi.
Theo dự thảo, cấp bậc quân hàm của QNCN được xác định tương ứng với trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ và mức lương để đáp ứng yêu cầu công tác chỉ huy, quản lý trong Quân đội nhân dân. Bậc quân hàm cao nhất của QNCN có trình độ cao cấp là thượng tá QNCN.
Thường trực UBQPAN nhất trí với dự thảo Luật quy định cấp bậc quân hàm của QNCN (cấp bậc quân hàm của QNCN là từ thiếu úy QNCN đến thượng tá QNCN) vì cho rằng, dự thảo Luật kế thừa các quy định hiện hành, tương ứng với Luật Công an nhân dân và thực tế thực hiện từ trước đến nay không có gì vướng mắc.
Tuy nhiên, tại phiên thảo luận có ý kiến đề nghị bổ sung quy định cấp bậc quân hàm đại tá QNCN cho người có học hàm giáo sư, phó giáo sư và học vị tiến sĩ để thể chế hóa Nghị quyết của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức trong tình hình mới. Nhiều ý kiến đề nghị cần nghiên cứu để có cơ chế tốt hơn để thu hút được nhân tài các nhà khoa học, kỹ thuật cho quân đội.
Theo QĐND
Theo_Kiến Thức
Đầu tư hàng chục tỷ đồng để huấn luyện, chuyển loại phi công Vietnam Airlines chi ra hàng chục tỷ đồng để đưa 90 phi công sang Singapore đào tạo chuyển loại từ dòng tàu bay Airbus và Boeing 777 sang lái tàu bay Boeing 787 Dreamliner trong vòng 5 năm. Hiện đã có 38 phi công đã hoàn thành huấn luyện chuyển loại. Chương trình huấn luyện chuyển loại phi công đã được Tổng công...