“Đẻ không đau” – Nên hay không?
Nhiêu thai phụ muôn con minh sinh ra theo lôi sinh thương, nhưng ban thân lai vô cung lo sơ nhưng cơn đau đe (co thê do nghe tư ngươi khac kê lai, hoăc cung co thê co kinh nghiêm tư lân sinh trươc). Chính vì vậy, hiện có rất nhiều bà mẹ quan tâm đến phương pháp “đẻ không đau”. Vậy thế nào là “đẻ không đau” và ai không nên áp dụng phương pháp này?
Thê nao là “đẻ không đau”?
Ky thuât “đe không đau” la phương phap gây tê ngoai mang cưng, tưc la tiêm thuôc gây tê vao cung côt sông ơ thăt lưng (vung nay chưa cac dây thân kinh chi phôi cac cam giac đau tư vung bung trơ xuông). Nhơ tac dung cua thuôc tê, cac cơn co tư cung vân xay ra đêu đăn va thuc đây cuôc chuyên da nhưng san phu se không co cam giac đau đơn.
Ơ Viêt Nam, ky thuât sinh nay đa đươc ưng dung thanh công tai nhiêu bênh viên. Phương phap nay co ưu điêm la giup san phu tiêt kiêm sưc đê răn đe tôt hơn vi không phai trai qua nhưng cơn chuyên da đau đơn. Thuôc tê co thê keo dai đê giam đau sau đo nhiêu giơ, va không anh hương đên em be vi no không qua nhau thai.
Trong qua trinh sinh nơ, nêu san phu không thê tư sinh thương thi bac si se chi đinh sinh mô đê an toan cho ca me va con. Khi phải sinh mổ, chỉ cần thêm liều thuốc tê qua đường truyền để giảm đau trong lúc mổ.
Video đang HOT
Thực hiện kỹ thuật gây tê ngoài màng cứng tại Bệnh viện đa khoa Bắc Giang. Ảnh: Nguyễn Hồng
Ai không thê dung phương phap ” đẻ không đau”?
Đê thưc hiên môt ca đe không đau, bac si san khoa se phai kham thât chi tiêt cho san phu đê biêt vê tiêu sư bênh ly, tinh trang chuyên da, tinh trang cơn co va xem co phu hơp vơi phương phap sinh nay không.
Phương phap sinh nay phu hơp vơi cac san phu co cac bênh như tăng huyêt ap, bênh tim…, nhưng lai không đươc ap dung cho cac san phu co bênh ly liên quan đên côt sông, rôi loan đông mau hoăc đang co tinh trang nhiêm trung…
Các tác dụng phụ có thể gặp
Khi áp dụng phương pháp sinh thường không đau, môt sô san phu co thê găp trang thai chong măt, ơn lanh hay lanh run, buôn nôn, nôn hay kho vân đông chân ngay sau khi tiêm thuôc. Môt sô trương hơp co thê bi nhưc đâu nhe, đau lưng trong thơi ki hâu san. Nhưng cac triêu chưng nay không nguy hiêm va se tư hêt sau vai giơ. Hiếm hơn, một số người có thể có cảm giác lạ vùng mông, đùi (như kiến bò, rát bỏng) trong thời gian ngắn hậu sản và sau đó sẽ tự khỏi.
Theo Bác sĩ Lê Mai Phương/SK&ĐS
Chọn thức ăn theo thể trạng mát hay nóng
Ăn quá nhiều thức ăn chứa chất xơ, nước, muối khoáng và sinh tố mà bữa ăn lại ít năng lượng sẽ dẫn tới tình trạng cơ thể thường ớn lạnh, tiêu chảy, dễ phiền muộn...
Có một số thức ăn có thể làm cho cơ thể ấm áp hơn hoặc mát mẻ, dễ chịu. Chúng ta gọi là thức ăn có tính nóng hoặc tính mát. Thức ăn chứa nhiều năng lượng được cho là có tính nóng, làm cho cơ thể ấm lên; thức ăn ít năng lượng, nhiều nước, nhiều chất xơ, nhiều muối khoáng và sinh tố được cho là có tính mát. Điều này đúng nhưng chưa đủ.
Thừa chất béo, dễ cáu gắt
Lý do là vì khẩu phần ăn uống hợp lý phải có đầy đủ và cân đối thành phần dinh dưỡng với các chất như: bột đường, đạm, béo, xơ và các muối khoáng, sinh tố cần thiết cho cơ thể.
Ăn quá nhiều béo, bột đường, đạm hơn các loại khác sẽ dẫn tới tình trạng nóng bứt rứt trong người do hấp thu nhiều năng lượng hơn mức cần thiết; cơ thể sẽ táo bón, mất ngủ, dễ cáu gắt, tạo điều kiện thuận lợi cho mụn nhọt phát sinh... Ăn quá nhiều thức ăn chứa nhiều chất xơ, nước, muối khoáng và sinh tố mà bữa ăn lại ít năng lượng nữa sẽ dẫn tới tình trạng cơ thể thường ớn lạnh, tiêu chảy, dễ phiền muộn...
Thức ăn có vị chua, đắng, mặn thuộc âm (tính mát); cay, ngọt thuộc dương (tính nóng)
Theo đông y, các loại thức ăn được phân biệt tùy khí và vị. Mát và lạnh thuộc âm, ấm và nóng thuộc dương. Không âm không dương quá là khí bình. Xét về vị thì chua, đắng, mặn thuộc âm; cay, ngọt thuộc dương. Vị nhạt thuộc khí bình. Như vậy, thức ăn chứa tinh dầu hoặc các hoạt chất có vị cay, thơm, tạo ra cảm giác ấm nóng cho cơ thể thì có tính nóng, được dùng làm gia vị để tạo mùi thơm và giảm bớt tính mát hoặc lạnh của thức ăn chính.
Tuy nhiên, tính nóng hay mát của thức ăn có thể thay đổi tùy thuộc vào trạng thái của chúng hoặc cách chế biến. Chẳng hạn nước mía có tính mát nhưng khi nấu nóng hoặc chế biến thành đường thì lại có tính nóng. Chuối tươi có tính mát nhưng chuối khô lại có tính nóng. Thức ăn có vị đắng, chua, mặn thường có tính mát hoặc lạnh còn thức ăn có vị cay, ngọt, chát thì có tính nóng; thức ăn có vị nhạt sẽ có tính bình.
Về mặt ẩm thực, khi cơ thể cần mát thì phải bổ sung thức ăn tính mát. Cơ thể cần ấm thì phải bổ sung thức ăn tính nóng. Thức ăn có tính bình sẽ được dùng chung cho các trường hợp. Như vậy, việc chọn thức ăn phù hợp với thể tạng hoặc tình trạng bệnh lý là rất quan trọng. Không thể cứ nhiều chất dinh dưỡng là tốt.
Lưu ý thể tạng
Để điều hòa cơ thể, bạn nên biết thể tạng của mình để chọn thức ăn phù hợp. Người có thể tạng nóng (dương) sẽ có những biểu hiện như gầy khô, đổ mồ hôi trộm, đau lưng, mỏi gối, chân run, hoa mắt, ù tai, người nóng bứt rứt, đại tiện táo, tiểu tiện nóng, nước tiểu vàng, khó ngủ, dễ cáu gắt, mộng tinh, t.ình d.ục suy yếu.
Để điều hòa cơ thể, bạn nên biết thể tạng của mình để chọn thức ăn phù hợp (ảnh minh họa)
Người có thể tạng mát (âm) thì lưng gối lạnh đau, đại tiện lỏng, có khi tiêu chảy vào lúc sáng sớm, ù tai, hoa mắt, sợ lạnh, thích uống nước ấm, tự ra mồ hôi, có khi tiểu đêm nhiều lần, mất ngủ, di hoạt tinh, liệt dương, tinh thần suy sụp.
Thể tạng nóng mà ăn uống thức ăn có tính nóng nhiều quá (gồm: thức ăn nhiều béo, nhiều ngọt; cay thơm như quế, gừng, sả, ớt, hành, tỏi, tiêu, đinh hương, đại hồi, thảo quả...; các loại trái ngọt như mít, nhãn, vải khô, nho khô, sầu riêng, xoài chín...; các chất đạm đậm như thịt dê, chó, bò, ngựa, cừu...) thì sẽ làm cho âm kiệt tạo ra vong âm.
Thể tạng mát mà ăn uống các thứ có tính mát quá (gồm: trái cây nhiều chất chua, nhạt, ít ngọt; rau quả có tính lạnh như dưa leo, bí đao, bầu, khổ qua, cà chua, dưa hấu, nước dừa...; rau quả có tính mát, nhất là rau thủy sinh; hải sản như nghêu, sò ốc, hến, cua; sữa bò; thức ăn chưa nấu chín, ít sử dụng các loại gia vị cay thơm)... sẽ làm cho dương kiệt dẫn tới vong dương.
Cả hai cách đều không có lợi cho sức khỏe.
Qua đó, chúng ta thấy ăn uống để điều hòa âm - dương trong cơ thể, bảo vệ sức khỏe, là cả một khoa học, nghệ thuật, đòi hỏi nhiều cảm nhận, công phu và tinh tế.
Mùa hè: Tránh thức ăn tính nóng Một ví dụ sinh động là cách ăn uống của người Nam Bộ: Do thiên nhiên nóng nực quanh năm, thuộc nhiệt (dương) nên truyền thống của người Nam Bộ là ăn nhiều thức ăn có vị mặn, chua, đắng. Đó chính là những thức ăn thuộc âm. Môi trường nóng ẩm tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều loại bệnh mùa hè phát sinh, như: mụn nhọt, viêm lở, kiết lỵ, thương hàn, ngộ độc thức ăn, viêm não, say nắng, nhiễm độc thần kinh... Do đó, trong mùa nắng nóng, cần tránh hoặc hạn chế một số thức ăn có thể làm cơ thể bị nóng, như: các món cay nóng hoặc dùng nhiều gia vị (cà ri, quế, gừng, riềng, sả, tiêu, tỏi); thịt, cá; thức ăn chiên xào nhiều dầu mỡ. Nếu muốn ăn các món như nem rán, chả giò, bánh xèo, bánh khoái thì nên dùng kèm rau xanh, rau gia vị (cải non, cải cay, xà lách, diếp cá, húng quế, giá đậu, dưa leo...).
VGT(Theo Người lao động)
Tránh hiểm họa trúng gió Trúng gió hay trúng phong là thuật ngữ dân gian và y học cổ truyền chỉ trường hợp bệnh lý xảy ra thình lình do thời tiết, môi trường... tác động cơ thể qua đường thở hoặc lỗ chân lông. Trong những thời điểm giao mùa, khi thời tiết thay đổi đột ngột, lúc có áp thấp, mưa bão hoặc nhiều khí lạnh,...