ĐBSCL đối mặt hạn, mặn
Tại Bạc Liêu, thiệt hại do khô hạn trên vùng ngọt hóa đã hơn 80 tỉ đồng. Ở An Giang, hạn, mặn đe dọa gần 18.000 ha lúa
Theo Viện Khoa học thủy lợi miền Nam (SIWRR), dòng chảy mùa khô năm 2019-2020 từ thượng lưu sông Mekong về ĐBSCL có khả năng ở mức thấp kỷ lục, nên xâm nhập mặn mùa khô của khu vực là rất nghiêm trọng (đến sớm, xâm nhập sâu trên diện rộng và kéo dài), ảnh hưởng lớn đến sản xuất và sinh hoạt.
Hàng ngàn ha lúa đang chết khô
Những ngày qua, hơn 5.400 ha lúa vùng Bắc Quốc lộ 1 (tỉnh Bạc Liêu) đang thiếu nước ngọt trầm trọng. Tiểu vùng ngọt sản xuất rau màu cũng bị ảnh hưởng nặng. Đi đôi với khô hạn, xâm nhập mặn sớm dẫn đến nguy cơ có 5.000 ha nuôi tôm bị thiệt hại.
Thiệt hại nặng nhất là vùng ngọt hóa trên địa bàn thị xã Giá Rai, nơi có hàng ngàn ha lúa đang đối mặt với nguy cơ chết khô. Ngành chức năng thị xã Giá Rai ước tính đến thời điểm này, thiệt hại do khô hạn trên vùng ngọt hóa là khoảng 80 tỉ đồng. Nếu không dẫn nước ngọt về kịp thời thì thiệt hại sẽ rất khó lường.
Theo ghi nhận của phóng viên, hàng loạt kênh thủy lợi vùng ngọt hóa thuộc địa bàn thị xã Giá Rai đã cạn trơ đáy. Nặng nhất là kênh Chống Mỹ (ấp 19, xã Phong Tân, thị xã Giá Rai) cung cấp nước ngọt cho vùng lúa hàng trăm ha của xã. Để cứu lúa trong thời gian chờ ngành chức năng điều tiết nước ngọt, nhiều hộ dân chấp nhận vét chút nước còn sót lại dưới đáy kênh vốn đã nhiễm phèn để tưới tiêu vì không còn cách nào khác.
Cũng như hàng trăm hộ nông dân vùng ngọt hóa Giá Rai, gia đình ông Nguyễn Văn Việt (ở ấp 19, xã Phong Tân) vừa xuống giống 10 ha lúa được 20 ngày, nay như đang ngồi trên lửa vì nước trong ruộng đang khô dần, trong khi nước kênh đã cạn trơ đáy. “Tình trạng này chỉ cầm cự được khoảng một tuần nữa thôi. Hy vọng ngành chức năng sớm đưa nước từ Ngã Năm (Sóc Trăng) về kịp để cứu được phần nào. Thời điểm gieo sạ chúng tôi không nghĩ nước khô nhanh đến vậy” – ông Việt lo lắng.
Ông Nguyễn Văn Việt trên cánh đồng lúa đang chết khô vì thiếu nước. Ảnh: DUY NHÂN
Video đang HOT
Được dự báo từ SIWRR, trước Tết nguyên đán, Ban Chỉ huy Phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Vĩnh Long đã đề nghị UBND huyện Vũng Liêm (tỉnh Vĩnh Long) chỉ đạo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Vũng Liêm phối hợp với Ban Quản lý Đầu tư và Xây dựng Thủy lợi 10 đóng cửa cống Vũng Liêm nhằm bảo đảm nguồn nước cho sản xuất và dân sinh.
Theo ông Huỳnh Quang Thọ, nông dân ở xã Quới An, huyện Vũng Liêm, tranh thủ những ngày mặn giảm, ông đã nạo vét nhiều mương, ao trữ nước ngọt. “Thời gian độ mặn lên từ 7-10 ngày, sau đó giảm nên việc trữ nước ngọt trong mương sẽ đủ nước cho cây trồng trong thời gian mặn xâm nhập. Ở đây ai cũng có kinh nghiệm đối phó khi có mặn vô” – ông Thọ nói.
Xử lý nghiêm việc tự ý lấy nước
Vụ lúa đông xuân tại ĐBSCL sẽ bị ảnh hưởng lớn do thiếu nguồn nước và chi phí sản xuất cũng rất cao. Do vậy, SIWRR khuyến cáo các địa phương cần phải tích trữ nguồn nước ngọt tối đa bất kỳ thời điểm nào xuất hiện nguồn nước ngọt trên sông, kênh. Đầu các tháng 2 và 3-2020, khả năng nguồn nước ngọt cũng được cải thiện và cần tận dụng.
Ông Lương Huy Khanh, Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh An Giang, cho biết UBND tỉnh này đã ban hành kế hoạch phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh trong mùa khô năm nay. Hiện mực nước thượng lưu sông Mekong tiếp tục xuống và ở mức thấp, lượng dòng chảy từ thượng nguồn sông Mekong về đầu nguồn sông Cửu Long trong các tháng đầu mùa khô ở mức thấp hơn trung bình nhiều năm từ 20%-50%. Điều này cũng đồng nghĩa với việc mực nước trên các sông/kênh xuống thấp và thiếu hụt mưa trong mùa khô, hạn hán và xâm nhập mặn trong mùa khô năm 2019-2020 sẽ xảy ra sớm hơn, sâu hơn, gay gắt hơn và có khả năng ảnh hưởng đến sản xuất của diện tích 9.361 ha. Trong đó, vùng núi Tri Tôn và Tịnh Biên khoảng 5.099 ha và vùng đồng bằng ở các huyện Phú Tân, Châu Đốc, Tân Châu khoảng 4.262 ha. Trường hợp mặn từ tỉnh Kiên Giang xâm nhập sâu nội đồng, có khả năng ảnh hưởng đến diện tích 9.328 ha sản xuất nông nghiệp của 2 huyện Tri Tôn và Thoại Sơn.
“Trước mắt, các ngành chức năng cùng các địa phương thực hiện công tác tuyên truyền hướng dẫn người dân sử dụng nước tiết kiệm trong sinh hoạt và sản xuất; thực hiện nghiêm phương án chống hạn ở các địa phương và của các đơn vị cung cấp nước. Ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các trường hợp tự ý ngăn chặn, đắp, đào xẻ kênh lấy nước không theo kế hoạch tưới; sẵn sàng phương án vận chuyển nước phục vụ sinh hoạt cho các hộ dân bị thiếu nước cục bộ (nếu xảy ra thiếu nước) ở vùng núi Tri Tôn và Tịnh Biên” – ông Khanh nói.
THỐT NỐT – DUY NHÂN – CA LINH
Theo Nguoilaodong
Khai thác cát quá nhiều: Trầm trọng hơn tình trạng của ĐBSCL
Theo chuyên gia, khai thác cát quá mức sẽ làm trầm trọng hơn tình trạng nguy cấp mà ĐBSCL đang đối mặt, đặc biệt là sạt lở.
Theo số liệu của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) và Ủy hội Sông Mekong (MRC), lòng sông của hai nhánh chính ở vùng đồng bằng sông Mekong đã sụt 1,4m trong giai đoạn 1998-2008 và mất tổng cộng 2-3m từ năm 1990. Việc khai thác cát quá mức là nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.
Trao đổi với Đất Việt, các ý kiến đều chia sẻ lo ngại việc khai thác cát quá mức gây mất cát ở hạ lưu sông Mekong, làm mất cân bằng bùn cát, hạ thấp đáy sông và thay đổi dòng chảy, từ đó làm trầm trọng hơn tình trạng nguy cấp mà khu vực sông Mekong nói chung và ĐBSCL nói riêng đang phải đối mặt, đặc biệt là tình trạng sạt lở, sụt lún.
Theo PGS.TS Đinh Công Sản, Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, từ năm 2010 đến năm 2013, Viện đã thực hiện đề tài khoa học công nghệ độc lập cấp Nhà nước "Nghiên cưu anh hương hoat đông khai thac cat đên thay đôi long dân sông Cưu Long (sông Tiên, sông Hâu) va đê xuât giai phap quan ly, quy hoach khai thac hơp ly".
Trong nghiên cứu này, các nhà khoa học của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam đã thống kê toàn bộ các giấy phép khai thác cát mà các sở KH-CN, TN-MT và sở Xây dựng của các địa phương đã cấp cho các doanh nghiệp để khai thác dọc sông Tiền và sông Hậu. Tổng cộng, khối lượng cát khai thác lên tới 28 triệu m3/năm.
"Chúng tôi đã tính toán lượng cát đổ về ĐBSCL với khối lượng cát khai thác trong một năm là bao nhiêu, từ đó cho thấy chúng ta có khai thác quá mức hay không.
28 triệu m3/năm chỉ là con số tính trên giấy phé, còn mức độ khai thác cát trong thực tế chắc chắn lớn hơn, tuy nhiên lớn hơn bao nhiêu thì chúng tôi chưa thể biết vì không có con số nào để đánh giá nạn cát tặc.
Khi đó, một số tỉnh đã nhìn nhận được tác hại của khai thác cát nên đã ngưng cấp phép khai thác cát như Cần Thơ.
Theo tính toán, lượng bùn cát thô từ thượng nguồn sông Mekong đổ về chỉ vài triệu m3/năm, thấp hơn rất nhiều lần so với lượng cát khai thác thực tế", PGS.TS Đinh Công Sản cho biết.
Vị chuyên gia khẳng định, mỗi đoạn sông cần có chiều sâu ổn định, nếu khai thác quá chiều sâu này thì sẽ gây nên những tác động trực tiếp, uy hiếp cho chính đoạn sông đó và các khu vực khác. Trong khi nguồn bùn cát từ thượng nguồn đổ về giảm đi do các đập thủy điện, hồ chứa đã và đang xây dựng thì ở nội địa, nhu cầu phát triển hạ tầng, xây dựng quá cao nên khai thác quá mức nguồn tài nguyên ổn định hàng trăm năm nay. Nếu vẫn khai thác với tốc độ như thế này sẽ không còn cát nữa.
Bên cạnh đó, vị chuyên gia cũng cho hay, Việt Nam đã cấm xuất khẩu cát, còn việc xuất khẩu cát trái phép là có, mức độ bao nhiêu chưa có con số cụ thể, nhưng theo ông, không phải là nhiều. Cái chính là việc cho phép khai thác cát trong lòng dẫn sông Mekong.
Vụ sạt lở bờ sông Vàm Nao, huyện Chợ Mới (tỉnh An Giang) nhấn chìm 16 căn nhà hồi tháng 4/2017
"Cách đây vài năm, nhiều đánh giá khoa học đã xác định được lượng bùn cát đổ về hạ lưu chỉ còn lại khoảng 40-50% so với trước đây. Nếu trong tương lai các đập thủy điện, hồ chứa xây dựng nhiều hơn nữa thì có thể giảm tới 80-90%. Khi đó, những tác động đến ĐBSCL sẽ rất mãnh liệt, đặc biệt là tình trạng sạt lở và nó sẽ lan sang các vùng lân cận", PGS.TS Đinh Công Sản chỉ rõ và giải thích thêm: Khi trầm tích (đất) lắng đọng dần dần về phía hạ lưu thì theo thời gian, đất sẽ bị nén xuống, gây ra lún.
Trong điều kiện bình thường thì lượng bùn cát cấp về đồng bằng lớn hơn lượng nén lún đó, nên đồng bằng mỗi năm bồi đắp cao hơn.
Tuy nhiên, khi các công trình xây dựng ở trên đầu nguồn ngăn dòng bùn cát bồi đắp đồng bằng dẫn đến không đủ khối lượng bù vào lượng nén lún, tất nhiên đất ở đồng bằng sẽ ngày càng bị hạ thấp xuống.
Để giảm thiểu tác động này, thay vì chỉ trông đợi vào các hợp tác Mekong, theo ông Sản, cần xem xét lại toàn bộ vấn đề khai thác cát ĐBSCL.
"Phải rà soát lại việc cấp phép khai thác cát có quá lớn hay không, để từ đó có quyết định ngưng, hạn chế, thậm chí không cho khai thác cát nữa", ông nói.
Trong khi đó, ông Phạm Văn Trọng, Giám đốc Sở TN-MT tỉnh Tiền Giang cho biết, sở không quan trắc nên không đánh giá được độ sụt lún do khai thác cát gây ra là bao nhiêu. Tuy nhiên, từ năm 2013, tỉnh Tiền Giang đã cấm khai thác cát nên ông tin rằng nếu có xảy ra sụt lún cũng không nhiều.
Thành Luân
Theo Datviet
ĐBSCL bắt đầu đối diện với tình trạng xâm nhập mặn Theo Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, từ giữa tháng 12/2019, một số nơi vùng ĐBSCL mặn xâm nhập sâu vào nội đồng khoảng 45 km tính từ cửa sông. Tại khu vực Nam bộ, mực nước thượng lưu sông Mekong xuống dần và ở mức thấp, lượng dòng chảy từ thượng nguồn sông Mekong về đầu nguồn sông Cửu Long trong...