Dấu hiệu lạc quan về dịch bệnh tại Nga và Anh
Tại Nga, số ca mắc mới trong một ngày đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 10/2020.
Người dân đeo khẩu trang phòng lây nhiễm COVID-19 trên tàu điện ngầm ở Moskva, Nga. Ảnh: THX/TTXVN
Ngày 23/2, Ban chỉ đạo phòng chống dịch COVID-19 của LB Nga cho biết nước này ghi nhận thêm 11.823 ca mắc trong 24 giờ qua, nâng tổng số ca mắc trên cả nước lên 4.189.153 ca. Thủ đô Moskva vẫn là nơi chịu ảnh hưởng nặng nhất, với số ca mắc tăng thêm 1.198 ca lên 970.755 ca.
Cũng trong 24 giờ qua, số ca tử vong tại Nga tăng thêm 417 ca lên 84.047 ca. Trong khi đó, số bệnh nhân bình phục và xuất viện tăng thêm 12.943 người lên 3.739.344 người.
* Trong khi đó, trả lời truyền thông khi được hỏi về thời điểm ngày 21/6 tới sẽ dỡ bỏ các biện pháp hạn chế tại vùng England theo lộ trình công bố ngày 22/2, Thủ tướng Boris Johnson bày tỏ lạc quan rằng Anh sẽ có thể đạt được mục tiêu này.
Về kế hoạch cấp chứng nhận cho những người đã tiêm vaccine phòng COVID-19, ông Johnson cho biết có nhiều vấn đề phức tạp mà chính phủ cần cân nhắc như các vấn đề về đạo đức, đồng thời thông báo Chánh Văn phòng Nội các Anh Michael Gove sẽ phụ trách xem xét việc này.
Sau khi Chính phủ Anh công bố lộ trình, các công ty lữ hành và hàng không cho biết số người đặt vé đi nghỉ ở nước ngoài tăng đến 600%, đem lại hy vọng về một mùa hè bội thu giúp giải cứu cho ngành du lịch vốn đang lao đao.
Video đang HOT
* Thứ trưởng Bộ Y tế CH Séc Vladimir Cerny cảnh báo các khu chăm sóc đặc biệt của nước này sắp trở nên quá tải trong khi số ca mắc COVID-19 tiếp tục tăng mạnh.
Ông Cerny cho biết: “Chúng tôi sắp cạn kiệt năng lực chăm sóc đặc biệt”, đồng thời cho rằng nguyên nhân là do thiếu đội ngũ nhân viên y tế có năng lực ngay ở tuyến đầu. Theo quan chức này, Séc hiện không thể duy trì các tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe và dịch vụ điều trị các bệnh ngoài COVID-19 bị ảnh hưởng.
Ngày 23/2, Séc ghi nhận trên 1.300 bệnh nhân phải điều trị trong các khu chăm sóc đặc biệt, trong đó có 660 người đang phải thở máy.
Theo hãng tin AFP (Pháp), Séc là nước đứng đầu thế giới về tỷ lệ lây nhiễm trên 100.000 dân trong 14 ngày qua và là nước đứng thứ hai trong khu vực sau nước láng giềng Slovakia về số ca tử vong. Kể từ đại dịch bùng phát, quốc gia 10,7 triệu dân này có trên 1,16 triệu ca mắc và trên 19.500 ca tử vong.
Vì sao "chính quyền Biden" sẽ là cơn ác mộng với Nga?
Giọng điệu chống Nga gay gắt cùng những căng thẳng cũ mới đan xen là lý do khiến điện Kremlin lo lắng về một nước Mỹ do ông Joe Biden làm Tổng thống.
Gia tăng các lệnh trừng phạt
Bất chấp những lệnh trừng phạt cứng rắn và những lời chỉ trích mạnh mẽ, Nga vẫn không phải là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump, người được cho là có mối quan hệ dường như thân thiết với người đồng cấp Nga Vladimir Putin.
Ứng viên đảng Dân chủ Joe Biden. Ảnh: CNBC
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, tất cả những điều trên có thể sẽ thay đổi nếu ứng viên đảng Dân chủ Joe Biden giành chiến thắng trong cuộc bầu cử ngày 3/11 tới. Giới quan sát cho rằng, chiến thắng của ông Biden làm gia tăng căng thẳng giữa Washington và Moscow, đồng thời làm dấy lên khả năng về những lệnh trừng phạt mới sẽ áp lên Nga.
Một số quan chức cấp cao của Nga cùng một số ngành quan trọng của nước này hiện đang chịu các lệnh trừng phạt quốc tế, từ vấn đề sáp nhập Bán đảo Crimea năm 2014 cho tới cáo buộc can thiệp vào bầu cử Mỹ năm 2016 và cáo buộc liên quan đến vụ đầu độc một điệp viên ở Anh năm 2018.
Andrius Tursa, cố vấn khu vực Trung và Đông Âu thuộc Cơ quan Tình báo Teneo nhận định, chiến thắng của ông Biden sẽ cải thiện mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương giữa Mỹ và châu Âu, đồng thời chứng kiến "sự nối lại các cam kết của Mỹ với NATO", vốn được châu Âu vô cùng hoan nghênh.
Tuy nhiên, chuyên gia này cũng cho rằng, kết quả như vậy tức là mối quan hệ giữa Mỹ và Nga "chủ yếu sẽ đi xuống" và dẫn ra những diễn biến gần đây cho thấy sự thiếu tin tưởng lẫn nhau giữa điện Kremlin và phe Dân chủ ở Mỹ.
"Nhìn chung, việc ông Biden có thể trở thành Tổng thống sẽ đem đến tác động tiêu cực cho Moscow và có thể dẫn đến sự suy yếu quan hệ song phương, cả trên ý nghĩa biểu tượng và thực tế. Ứng viên Joe Biden của đảng Dân chủ từ lâu đã duy trì lập trường cứng rắn với chính quyền Tổng thống Nga Vladimir Putin", chuyên gia Tursa cho hay.
"Sự không hài lòng của điện Kremlin với ông Biden diễn ra từ thời ông ấy còn là Phó Tổng thống, đặc biệt khi ông ấy thúc đẩy lệnh trừng phạt chống lại Nga nhằm phản ứng trước sự kiện sáp nhập Crimea năm 2014".
Cả Nga và Ukraine vẫn né tránh việc tìm kiếm một giải pháp thực sự về vấn đề Crimea và những giao tranh ở khu vực Donbass thuộc phía đông Ukraine. Chuyên gia Tursa cho rằng nếu không đạt được tiến triển thực chất về giải pháp cho cuộc xung đột ở Donbass và Crimea, những tâm điểm ông Biden từng chú trọng tới khi là Phó Tổng thống, "Moscow hầu như không thể mong đợi gì về việc dừng đáng kể các lệnh trừng phạt", đồng thời đặt ra khả năng chính quyền ông Biden có thể sẽ thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp trừng phạt hiện nay. Nguy cơ về các lệnh trừng phạt mới cũng có thể gia tăng, chuyên gia này cho hay.
Học cách "chịu đựng" nhau
Dù vậy, theo chiến lược gia cấp cao tại Công ty Quản lý Tài sản Bluebay, bất kỳ lệnh trừng phạt mới nào nhằm vào Nga đều sẽ không thể tiến hành ngay lập tức. Nhà phân tích này đánh giá: "Mặc dù tôi cho rằng bản chất mối quan hệ Mỹ - Nga vẫn theo chiều hướng ngày càng xấu đi nhưng tôi không chắc chúng ta sẽ chứng kiến việc áp đặt bổ sung ngay lập tức các lệnh trừng phạt lên Nga".
"Họ sẽ không trừng phạt Nga chỉ vì mục đích trừng phạt. Họ sẽ muốn một hướng tiếp cận hợp lý và logic", ông Timothy Ash cho hay và nhấn mạnh rằng, "việc duy trì mối quan hệ giống như làm ăn với Nga có ý nghĩa quan trọng với Mỹ để đảm bảo việc phân phối các lợi ích chiến lược của Washington".
Chuyên gia này cũng cho rằng, dưới thời ông Biden, Mỹ và Nga sẽ phải "học cách chấp nhận những khía cạnh mà họ có thể "chịu đựng" nhau, cũng như tìm cách hòa hợp với nhau trong những lĩnh vực cụ thể mà 2 bên có chung lợi ích, chẳng hạn như kiểm soát vũ khí và giảm các nguy cơ xung đột ở những khu vực mà 2 bên cạnh tranh về lợi ích chiến lược như Ukraine, Belarus và Thổ Nhĩ Kỳ. Các lệnh trừng phạt sẽ là một phần trong bộ công cụ như vậy chứ không phải chỉ là một công cụ riêng lẻ".
Tuy nhiên, kiểm soát vũ trang là vấn đề mà cả Nga và Mỹ đều có lợi ích chung. Năm 2019, ông Biden cho thấy ông muốn mở rộng hiệp ước cắt giảm vũ khí hạt nhân giữa Nga và Mỹ, hay còn được biết tới là Hiệp ước Cắt giảm Vũ khí Chiến lược mới (New START), hoặc thực hiện một hiệp định nào đó tương tự vậy.
"Dựa trên những tuyên bố gần đây từ cả hai bên, việc đàm phán một Hiệp ước Cắt giảm Vũ khí Chiến lược mới là khía cạnh có thể đạt được sự tiến triển nếu ông Biden đắc cử. Tuy nhiên, thời gian để thực hiện việc này sẽ vô cùng gắt gao bởi hiệp ước trên sẽ hết hạn ngày 5/2/2021", chuyên gia Tursa đánh giá.
Bản thân Nga cũng thừa nhận rằng việc kiểm soát vũ khí là một động lực tích cực nếu ông Biden trở thành Tổng thống. Hồi đầu tháng 10, Tổng thống Putin đã chỉ trích điều mà ông cho là "giọng điệu chống Nga gay gắt" từ ông Biden, song cũng khẳng định, ông hoan nghênh những bình luận của ông Biden liên quan đến việc gia hạn New START./.
Thượng viện Mỹ lo yếu tố Nga, Trung Quốc khi bán F-35 cho UAE Các nghị sỹ trên đã gửi thư, bày tỏ sự lo ngại vấn đề này cho lãnh đạo Bộ Ngoại giao và quân đội Hoa Kỳ. Máy bay tàng hình F-35. Theo hãng tin RT, hai thượng nghị sĩ Hoa Kỳ là Robert Menendez và Jack Reed yêu cầu Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng cũng như các bên liên quan làm...