Dấu ấn vượt thời gian
Toạ đàm mang chủ đề “70 năm hợp tác đào tạo Việt Nam-Liên Xô/Liên bang Nga: Dấu ấn vượt thời gian”, do Báo Quân đội nhân dân phối hợp với Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng tổ chức sáng 30-12, đã góp phần khẳng định giá trị lâu bền của mối quan hệ truyền thống, hữu nghị thủy chung, tạo nền móng vững chắc cho mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Liên bang (LB) Nga…
Trung tướng Vũ Chiến Thắng, Cục trưởng Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng và Đại tá Đoàn Xuân Bộ, Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân đồng chủ trì tọa đàm. Phát biểu đề dẫn, Đại tá Đoàn Xuân Bộ khẳng định: Trong mỗi bước đường phát triển của Việt Nam luôn có dấu ấn của mối quan hệ hợp tác hữu nghị, truyền thống Việt Nam-Liên Xô/LB Nga. Trong mối quan hệ xuyên suốt từ năm 1950, hợp tác về giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) là điểm sáng trong mối quan hệ hợp tác đã được thử thách qua thời gian của hai dân tộc. Trong đó, hợp tác đào tạo trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng mang nhiều dấu ấn đặc biệt. Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước, sự giúp đỡ của Liên Xô/LB Nga về đào tạo cán bộ quân sự cho Việt Nam có ý nghĩa vô cùng lớn lao.
Toàn cảnh cuộc Toạ đàm.
Tại tọa đàm, các nhân chứng lịch sử của mối quan hệ vượt thời gian, những người từng sống và học tập, rèn luyện ở nước Liên Xô/LB Nga qua các thời kỳ, với những câu chuyện cảm động về tình thầy trò và kỷ niệm đẹp gắn bó với đất nước Liên Xô/LB Nga, đã cùng ôn lại một chặng đường dài bạn giúp Việt Nam đào tạo các thế hệ cán bộ quân sự.
48 bông cẩm chướng mừng chiến công
Trong không khí ấm cúng của cuộc tọa đàm có hai vị tướng thu hút sự chú ý đặc biệt. Trung tướng phi công Phạm Tuân, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng và Thượng tướng Võ Văn Tuấn, nguyên Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam. Họ là những thế hệ phi công được đào tạo bài bản ở Liên Xô qua các thời kỳ khác nhau, những nhân chứng cho sự giúp đỡ hiệu quả của Liên Xô dành cho lực lượng không quân Việt Nam, giúp lập lên những chiến công lẫy lừng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thượng tướng Võ Văn Tuấn, người học ở Liên Xô sau Trung tướng Phạm Tuân, đã không quên Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không kết thúc thắng lợi cách đây 48 năm. Trong chiến dịch này, phi công Phạm Tuân bằng ý chí, lòng dũng cảm của người Việt Nam, đã lái máy bay MiG-21 bắn rơi một máy bay B-52 của đế quốc Mỹ. Rất đúng chất lính bay được đào tạo ở Liên Xô, Thượng tướng Võ Văn Tuấn đã mang tới tọa đàm một lẵng hoa gồm 48 bông cẩm chướng rực rỡ biểu tượng của chiến thắng, tặng Anh hùng Phạm Tuân để nhắc nhớ tới sự kiện 48 năm Chiến thắng Hà Nội- Điện Biên Phủ trên không năm 1972, mà Anh hùng Phạm Tuân là một nhân chứng tiêu biểu biểu. Trung tướng Phạm Tuân không giấu được niềm xúc động, bởi đây không chỉ là tình đồng chí, đồng đội mà còn thể hiện tình cảm tri ân với đất nước Liên Xô mà hai vị tướng cùng mang nặng ân tình.
Trung tướng Phạm Tuân và Thượng tướng Võ Văn Tuấn tại Toạ đàm.
Trung tướng Phạm Tuân và Thượng tướng Võ Văn Tuấn đã chia sẻ về sự giúp đỡ hiệu quả của Liên Xô dành cho không quân Việt Nam. Theo Trung tướng Phạm Tuân, Liên Xô đã giúp Việt Nam đào tạo lực lượng phi công chiến đấu nòng cốt từ năm 1967 đến khi kết thúc chiến tranh. Khi Việt Nam gửi học viên sang Liên Xô đào tạo phi công, đầu vào học viên của chúng ta không được như các nước, nên nếu nước bạn Liên Xô không nhiệt tình giúp đỡ, không có tình yêu với đất nước, con người Việt Nam, thì chúng ta sẽ không thể có được một số lượng phi công chủ chốt để trở về nước thực hiện nhiệm vụ như vậy. Hơn thế, các chuyên gia Liên Xô đã sang Việt Nam, cùng trải qua sự thiếu thốn, ngày đêm sát cánh cùng các phi công Việt Nam, lắp ráp, sửa chữa máy bay, huấn luyện bay ngày, đêm cho các phi công của ta đáp ứng nhiệm vụ chiến đấu. Có những đồng chí chuyên gia đã hy sinh ở Việt Nam khi thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo phi công của ta.
Trung tướng Vũ Chiến Thắng, Cục trưởng Cục Đối ngoại (người đứng), Đại tá Đoàn Xuân Bộ, Tổng Biên tập Báo Quân đội nhân (ngồi bên trái) đồng chủ trì Toạ đàm.
Những biểu tượng của tình hữu nghị Việt-Xô
Tọa đàm còn có sự tham gia của các cựu học viên từng sinh sống và học tập ở Liên Xô/LB Nga, các cán bộ công tác tại những cơ quan, đơn vị có mối quan hệ hợp tác truyền thống và hiện nay với Liên Xô/LB Nga trong các lĩnh vực y tế, ngôn ngữ, văn hóa-nghệ thuật… Tham dự còn có lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị: Pháo binh, tăng thiết giáp, hải quân, Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga, Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác, những đơn vị có quan hệ hợp tác hiệu quả, thiết thực với quân đội LB Nga. Đây chính là những minh chứng sống động cho mối quan hệ hợp tác 70 năm qua giữa Việt Nam-Liên Xô/LB Nga đã mang lại những kết quả tốt đẹp và có nhiều triển vọng hợp tác mới.
Theo Trung tướng Vũ Chiến Thắng, hợp tác Việt Nam-Liên Xô/LB Nga trong lĩnh vực bảo quản và gìn giữ lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể coi là một biểu tượng cho mối quan hệ hợp tác thủy chung, son sắt giữa hai nước. Trung tá Tưởng Phi Vương, Trưởng khoa Hình thái, Viện 69, Bộ tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh chia sẻ, sự trợ giúp chí tình của các chuyên gia Liên Xô ngay từ giai đoạn đầu, những ghi chép tỉ mỉ cùng các tài liệu chính xác mà các chuyên gia để lại vẫn có giá trị cho tới tận bây giờ, giúp đội ngũ cán bộ Việt Nam thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn thi hài Bác. Mặc dù, hiện nay chúng ta đã làm chủ công nghệ, nhưng theo Trung tá Tưởng Phi Vương, Việt Nam vẫn cần tiếp tục hợp tác với LB Nga để thực hiện nhiệm vụ cao cả này.
Các đại biểu trao đổi bên lề cuộc Toạ đàm.
Tại tọa đàm, hai tư liệu quý về thời gian Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Liên Xô đã được bà Phạm Thị Lai, nguyên Trưởng phòng Tư liệu-Thư viện, Bảo tàng Hồ Chí Minh, giới thiệu. Đó là cuốn họa báo lãnh tụ Stalin tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh vào tháng 2-1950 và bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng chí Stalin vào ngày 14-10-1950. Qua đó cho thấy những năm tháng đầu tiên khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt nền móng. Chính Người đã làm cho nhân dân và Chính phủ Liên Xô hiểu, tin tưởng và cảm thông với Việt Nam bởi sự tương đồng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của hai nước.
Trong bức tranh chung tổng thể quan hệ hợp tác Việt Nam-Liên Xô/LB Nga, hợp tác quốc phòng luôn là một trụ cột, trong đó hợp tác đào tạo cán bộ quân sự có ý nghĩa quan trọng. Hợp tác đào tạo ở cấp quân chủng, binh chủng đã và đang được mở rộng và phát huy hiệu quả. Chuẩn Đô đốc Hoàng Hồng Hà, Phó tư lệnh Quân chủng Hải quân chia sẻ: “Tất cả thành tích của hải quân Việt Nam từ chiến thắng trận đầu cho đến thời gian gần đây trong các lĩnh vực làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật đều có sự đóng góp quan trọng của hợp tác đào tạo cán bộ với Liên Xô/LB Nga”. Đến nay, cán bộ, chiến sĩ hải quân đã làm chủ hoàn toàn các vũ khí trang bị hiện đại nhất được trang bị. “Tựu chung lại, hợp tác đào tạo hải quân là lĩnh vực hiệu quả nhất mà hải quân Liên Xô/LB Nga dành cho hải quân Việt Nam và sẽ tiếp tục được Quân chủng Hải quân ưu tiên thúc đẩy trong thời gian tới”, Chuẩn Đô đốc Hoàng Hồng Hà nói.
Không chỉ là câu chuyện của lịch sử 70 năm
Video đang HOT
Lắng nghe những câu chuyện cảm động được chia sẻ về tình hữu nghị Việt Nam-Liên Xô/LB Nga, Trung tướng Lê Phúc Nguyên, nguyên Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân, cựu sinh viên Khoa Báo chí, Trường Đại học Tổng hợp Moscow (MGU) cho rằng: “Từ những gì chúng ta có được trong thành quả hợp tác 70 năm, có thể thấy hợp tác đào tạo là một nền móng quan trọng. Câu chuyện chúng ta nói hôm nay không chỉ là câu chuyện của lịch sử 70 năm mà còn là chuyện của hiện tại, của tương lai”. Theo Trung tướng Lê Phúc Nguyên, hai dân tộc gắn bó với nhau là số phận của lịch sử cùng trải qua cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, trải qua thời gian khó khăn, giúp đỡ, ủng hộ lẫn nhau. “Trước đây có một người bạn Liên Xô như thế nào thì ngày nay, chúng ta cũng có một người bạn LB Nga như thế, với nhiều tiềm năng hợp tác được mở rộng”, Trung tướng Lê Phúc Nguyên nhấn mạnh.
Cũng theo Trung tướng Lê Phúc Nguyên, kinh nghiệm, học vấn đào tạo báo chí Xô viết rất có giá trị với báo chí cách mạng Việt Nam hiện nay. Báo chí, trong đó có báo chí quân đội, là vũ khí đấu tranh trên mặt trận tư tưởng. Với đặc thù tôn chỉ mục đích như vậy, theo ông, học vấn báo chí Xô Viết có thể đóng góp để phát triển nền báo chí cách mạng chất lượng, chuyên nghiệp, hiệu quả của Việt Nam và chúng ta nên nghiên cứu khai thác vận dụng.
Đồng quan điểm với Trung tướng Lê Phúc Nguyên, bà Nguyễn Thị Thu Đạt, Giám đốc Phân viện Puskin đã chia sẻ về việc giảng dạy và học tiếng Nga ở Việt Nam như một biện pháp để gìn giữ và phát huy những giá trị tốt đẹp của mối quan hệ Việt Nam-Liên Xô/LB Nga. Bà Thu Đạt giới thiệu về cách tiếng Nga đã đến với Việt Nam. Theo bà, tiếng Nga xuất hiện cùng thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Khi đó, trên đường phố Hà Nội, người dân cầm các biểu ngữ bằng các thứ tiếng, trong đó có 2 biểu ngữ tiếng Nga viết bằng chữ cái Latin với nội dung: Đả đảo chủ nghĩa đế quốc và Độc lập hay là chết!. Hiện nay, LB Nga đã khởi động lại hỗ trợ dành cho Việt Nam trong việc dạy và học tiếng Nga. Theo bà Thu Đạt, hiện trên thế giới chỉ còn lại một Phân viện Puskin duy nhất ở Việt Nam, nơi thực hiện sứ mệnh “tuyên truyền, quảng bá ngôn ngữ và văn hóa Nga, khuyến khích việc dạy và học tiếng Nga ở Việt Nam”.
Tổng thống LB Nga Vladimir Putin từng khẳng định: “Quan hệ Việt Nam-LB Nga đã lưu giữ được những giá trị tốt đẹp từ quá khứ, trong đó giá trị lớn nhất, đáng trân trọng nhất là sự tôn trọng, giúp đỡ vô tư không hề vụ lợi của các đối tác thủy chung”. Theo Giám đốc Phân viện Puskin: “Có lẽ việc dạy và học tiếng Nga như một ngoại ngữ ở Việt Nam là biểu hiện của một trong những giá trị tốt đẹp mà Tổng thống Putin muốn nhấn mạnh”.
Chuyện ít biết về vị bộ trưởng 'quan lộ thần tốc', 'cha đẻ' của cầu Chương Dương
Ngày 29/12/2020, tại Toà soạn Tạp chí Môi trường và Đô thị VN diễn ra Toạ đàm "GS.TS Bùi Danh Lưu - Một trí thức tài năng, nhà lãnh đạo và quản lý tâm huyết của Ngành Giao thông vận tải Việt Nam".
Nhân kỷ niệm 85 năm ngày sinh (28/8/1935 - 28/8/2020) và 10 năm ngày mất (30/12/2010 - 30/12/2020) của GS.TS Bùi Danh Lưu; theo sự khởi xướng và đề xuất của CLB "Trái tim Người lính", Tạp chí Môi trường và Đô thị Việt Nam phối hợp với Viện Nghiên cứu, Bảo tồn và Phát huy Văn hoá dân tộc cùng gia đình tổ chức Toạ đàm "GS.TS Bùi Danh Lưu - Một trí thức tài năng, nhà lãnh đạo và quản lý tâm huyết của Ngành Giao thông vận tải Việt Nam".
GS.TS Bùi Danh Lưu (còn có tên là Quốc Linh) sinh ngày 28/8/1935 tại xã Đào Xá (huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ), xuất thân trong một gia đình nho học.
Năm 1953, khi đang là học sinh cấp III (PTTH), ông tham gia Ban vận tải tiền phương phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Chiến dịch kết thúc, ông về trường học tiếp rồi được điều về Tổng cục Đường sắt làm liên lạc viên, đảm bảo giao thông trong kháng chiến chống Mỹ ở khu IV.
Năm 1970, ông được cử sang Tiệp Khắc du học và về nước năm 1976 với tấm bằng Phó Tiến sĩ. Biết tin này, nhiều đơn vị thuộc Bộ Giao thông Vận tải muốn mời ông về làm việc.
Thế nhưng GS.TS Bùi Danh Lưu đã quyết định nhận đảm nhiệm chức vụ Phó Viện trưởng Viện Kỹ thuật giao thông vận tải. Suốt bốn năm ở đây, dù gặp nhiều khó khăn nhưng ông Bùi Danh Lưu vẫn hoàn thành xuất sắc nhiều công trình khoa học, nhiều đề tài nghiên cứu của ông đã được ứng dụng vào thực tiễn.
Đặc biệt, giai đoạn ông được bổ nhiệm Thứ trưởng, rồi Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện (GTVTBĐ)... có rất nhiều điều độc đáo, đáng để hậu thế suy ngẫm!
Con đường quan lộ thần tốc
Một buổi chiều cuối tháng 9/1982, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải (khi ấy là Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên) đột xuất đến thăm Viện Kỹ thuật Giao thông vận tải nơi GS.TS Bùi Danh Lưu đang làm Phó Viện trưởng.
Kết thúc buổi làm việc, tướng Đồng Sỹ Nguyên đột nhiên gọi GS.TS Bùi Danh Lưu và vị Viện trưởng vào phòng và nói:
- Sắp tới, Bộ cần có thêm một Thứ trưởng đặc trách về khoa học kỹ thuật. Một trong hai anh sẽ được chọn. Các anh có ý kiến gì không?
Cả hai người đều im lặng. Bộ trưởng Đồng Sỹ Nguyên nói tiếp:
- Thôi được rồi, Bộ sẽ cân nhắc. Các anh có ý kiến gì thì gửi thư cho tôi.
Sau đấy, GS.TS Bùi Danh Lưu bận công việc cũng không để tâm đến chuyện này. Vậy mà chừng nửa tháng sau, ông bất ngờ được thăng lên làm Vụ trưởng Vụ Khoa học Kỹ thuật Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện.
17 ngày sau khi lên chức Vụ trưởng, Bùi Danh Lưu lại được lệnh lên gặp Bộ trưởng Đồng Sỹ Nguyên. Bộ trưởng thông báo với ông rằng: Trung ương đã quyết định bổ nhiệm GS.TS Bùi Danh Lưu làm Thứ trưởng và quyết định đã có từ lâu.
Vậy là GS.TS Bùi Danh Lưu từ Viện phó Viện Kỹ thuật giao thông vận tải lên Vụ trưởng rồi Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện trong thời gian chỉ đúng 17 ngày.
GS.TS Bộ trưởng Bùi Danh Lưu được coi là cha đẻ của cây cầu Chương Dương
"Cha đẻ" cầu Chương Dương
GS.TS Bùi Danh Lưu được coi là "cha đẻ" cầu Chương Dương khi có công đầu xây nên cây cầu này.
Những năm 80 của thế kỷ 20, cả Hà Nội chỉ có cầu Long Biên bắc qua sông Hồng. Do làn đường ôtô quá nhỏ, phương tiện lưu thông đông nên cảnh ách tắc luôn xảy ra.
Vì vậy, việc dựng ngay một cây cầu để vào trung tâm Hà Nội là ưu tiên số một. Lúc đó tướng Đồng Sĩ Nguyên muốn nhờ Nhật Bản xây dựng một cầu treo nhưng GS.TS Bùi Danh Lưu lại đề xuất làm một cây cầu sắt vĩnh cửu với tốc độ làm cầu treo, tận dụng khối lượng sắt thép, vật tư làm cầu Thăng Long còn thừa.
Ông tự thiết kế cây cầu và chịu trách nhiệm về tính khả thi của dự án. Cuối cùng ông đã thuyết phục được Bộ trưởng và Chính phủ phê duyệt dự án và đích thân ông chỉ huy công trình.
Ông đã trực tiếp chỉ huy thi công cầu Chương Dương và chỉ sau thời gian ngắn kỷ lục 1 năm 9 tháng, cầu Chương Dương được khánh thành, vượt tiến độ 12 tháng, chấm dứt hoàn toàn cảnh tắc nghẽn trên cầu Long Biên. Đây được chiến công hy hữu trong lịch sử.
Cầu Chương Dương đã đi vào lịch sử với tên tuổi GS.TS Bùi Danh Lưu. Đây là cây cầu lớn lần đầu tiên được thiết kế và thi công tại Việt Nam không cần có sự trợ giúp kỹ thuật của các kỹ sư nước ngoài.
Cầu Chương Dương đến bây giờ vẫn được coi là biểu tượng của tinh thần tự lực, tự cường Việt Nam. Theo mục tiêu ban đầu, cầu Chương Dương chỉ cần được sử dụng trong 10 năm nhưng đến nay sau hơn 30 năm sử dụng, cây cầu này vẫn đang vận hành tốt.
Bất ngờ khi lên chức Bộ trưởng
Tháng 6/1986, GS.TS Bùi Danh Lưu bất ngờ được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải và Bưu điện. Khi đó, ông đang cùng đoàn cán bộ đi khảo sát thực tế vùng Tây Bắc, nên không hề hay biết việc mình được lên chức Bộ trưởng.
Đến Lai Châu, đêm ngủ ở nhà khách của tỉnh, GS.TS Bùi Danh Lưu cùng anh em trong đoàn công tác nghe có người nói Bộ Giao thông vừa có Bộ trưởng mới. Người đưa tin lại nói Bộ trưởng là một ông họ Bùi gì đó, nhưng vì sóng radio chập chờn nên không nghe rõ.
Ông Đặng Hạ, cố vấn của Bộ trưởng Đồng Sỹ Nguyên tin là ông Bùi Do, một cán bộ cao cấp thân cận của tướng Đồng Sỹ Nguyên hồi đó đã được bổ nhiệm. Chính GS.TS Bùi Danh Lưu cũng nghĩ vậy.Mấy anh em chỉ ngồi bàn tán một lúc rồi lại ai về phòng nấy ngủ để lấy sức vượt đèo khảo sát.
Sáng hôm sau, khi xe vừa chuẩn bị chuyển bánh thì một đoàn khách khá đông gồm đủ mặt cán bộ lãnh đạo tỉnh kéo đến. Ông Bí thư tỉnh uỷ ôm bó hoa rất đẹp đến tặng và nói: "Xin chúc mừng tân Bộ trưởng Giao thông Vận tải Bùi Danh Lưu". Nghe tin này, tất cả mọi người trong đoàn đều bất ngờ nhưng GS.TS Bùi Danh Lưu là người bất ngờ nhất.
Về sau, khi kể lại câu chuyện này, chính bản thân GS.TS Bùi Danh Lưu vẫn cười. Ông bảo: "Không thú vị sao được?! Hôm rời Hà Nội, tôi còn là Thứ trưởng; chỉ mấy ngày sau, từ Tây Bắc trở về, tôi đã là Bộ trưởng".
Từ đó, ông liên tục được tín nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ GTVTBĐ. Thời gian ông giữ chức lên đến 10 năm từ 1986 đến 1996.
Tháng 12 năm 1986 trong Đại hội Đảng lần thứ VI, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và tái đắc cử liên tiếp trong ba khóa VI, VII, VIII.
Đặc biệt là khoá VIII, ông không thuộc diện nhân sự Trung ương giới thiệu tái cử, nhưng cơ sở vẫn giới thiệu để bầu và ông vẫn trúng phiếu cao. Trong cuộc bầu cử ngày 19 tháng 4 năm 1987, ông trúng cử đại biểu Quốc hội khóa VIII.
Tháng 12/1987, tại Đại hội thành lập Hội Khoa học kỹ thuật cầu đường Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, ông được bầu làm Chủ tịch hội và giữ chức vụ này đến khi qua đời (2010).
Ngoài ra, ông được bổ nhiệm làm Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
GS.TS Bộ trưởng Bùi Danh Lưu luôn tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của Ngành GTVTBĐ
Tạo điều kiện cho sự phát triển của Ngành GTVTBĐ
GS.TS Bộ trưởng Bùi Danh Lưu đã dành cả cuộc đời cống hiến cho ngành GTVTBĐ. Ông cũng là người góp công xây dựng nên nhiều công trình giao thông được sử dụng đến tận ngày nay.
Trong những năm làm Thứ trưởng, GS.TS Bùi Danh Lưu là trợ thủ đắc lực của Bộ trưởng Đồng Sĩ Nguyên trong nhiều chủ trương và công việc cụ thể thúc đẩy ngành giao thông phát triển.
GS.TS Bùi Danh Lưu lên nhậm chức Bộ trưởng vào năm 1986. Đó là thời kỳ đất nước lầm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Ngành GTVTBĐ cũng không nằm ngoài bối cảnh chung của dân tộc khi đó, là một bức tranh cực kỳ bi đát.
Trước tình thế đó, để cứu lấy ngành GTVTBĐ GS.TS Bùi Danh Lưu đã có những quyết sách sáng suốt đạt thành quả toàn diện trên mọi lĩnh vực.
Với tầm nhìn chiến lược, Bộ trưởng Bùi Danh Lưu đưa ra Chương trình 11 điểm phát triển ngành giao thông vận tải.
Trước hết đó là hành động "tự phẫu thuật chính mình" thay đổi lớn về ngành GTVTBĐ: Chấm dứt mô hình đơn vị hỗn hợp, tách công tác quản lý khỏi sản xuất kinh doanh khi cho lập các Cục chuyên ngành - hoàn toàn làm công tác quản lý nhà nước và các Tổng công ty kinh doanh vận tải chịu trách nhiệm kinh doanh và nộp tiền cho ngân sách.
Quyết sách này tác động mạnh trong toàn ngành. Sau khi tách ra, người và nghề duy tu được trả lại đúng tên, nhiều hoạt động được chấn chỉnh hoặc khôi phục trở lại.
Bộ trưởng Bùi Danh Lưu cũng trực tiếp phát động Chương trình phát triển giao thông nông thôn theo phương thức "Nhà nước và nhân dân cùng làm" trên phạm vi cả nước. Sau 10 năm ông giữ vai trò Bộ trưởng, đã có thêm gần 1.000 xã được xóa khỏi danh sách chưa có đường ô tô tới trung tâm.
Chính sách táo bạo thứ hai đó là xã hội hoá kinh doanh vận tải, huy động xe tư nhân tham gia vận tải. Chỉ trong một thời gian ngắn, cung cầu từ hụt hẫng nghiêm trọng trở lại cân bằng mà nhân tố quyết định là do các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, chủ yếu là tư nhân đầu tư phương tiện mới chiếm tỉ trọng lên đến 70 đến 80% tham gia kinh doanh vận tải.
Một quyết sách khác của Bộ trưởng Bùi Danh Lưu đó là chủ trương "lấy đường nuôi đường, lấy công trình nuôi công trình" (thu phí giao thông) để tạo vốn xây dựng và duy tu hạ tầng cơ sở giao thông.
Những phương sách này đã tạo tiền đề cho việc triển khai hàng loạt dự án BOT và PPP sau này. Đến nay chúng ta đã rất quen thuộc với việc thu phí giao thông hay cách thức xây dựng - khai thác - chuyển giao (BOT) nhưng vào thời điểm GS.TS Bùi Danh Lưu làm Bộ trưởng điều đó còn rất xa lạ. Những phương sách mới này lúc đó bị phản đối kịch liệt bởi thói quen bao cấp kéo dài.
Chương trình 11 điểm của Bộ trưởng Bùi Danh Lưu đã chứng tỏ tầm nhìn chiến lược và tính dự báo cho sự phát triển sôi động giao thông vận tải trong kinh tế thị trường đầu thế kỷ 21.
Với vốn tri thức được đào tạo bài bản, tầm nhìn hơn người, với bản lĩnh và tâm huyết dành cho ngành GTVTBĐ, GS.TS, Bộ trưởng Bùi Danh Lưu đã "vực" ngành giao thông qua khỏi khủng hoảng những năm thập niên 70 - 80 của thế kỷ 20 và bắt đầu có những bước phát triển khởi đầu cho sự bùng phát mạnh mẽ trong thế kỷ sau.
Ông vinh dự được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huân chương Lao động hạng Nhất, hàng Ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
Một đàn ông mẫu mực của gia đình
Là người có học hàm học vị cao, một chính khách lẫy lừng nhưng khi trở về nhà, Bùi Danh Lưu lại là người chồng người cha bình dị và chăm lo vợ con hết mực.
GS.TS Bùi Danh Lưu xây dựng gia đình với bà Trần Thị Quế từ năm 1956 và có với nhau 3 người con. Hơn 50 năm sống bên nhau, dù bận trăm công nghìn việc nhưng ông luôn dành cho người vợ của mình tình yêu thương và sự quan tâm sâu sắc. Để đến bây giờ khi ông đã đi xa nhiều năm, trong tâm trí bà vẫn toàn là những dấu ấn đầy thương mến.
Điều hạnh phúc của gia đình cố GS.TS Bùi Danh Lưu là con cháu ông đều trưởng thành. Đặc biệt là thế hệ các cháu, đã nối tiếp truyền thống hiếu học của người ông, đều học rất giỏi, trở thành những nhà nghiên cứu khoa học trẻ, là niềm tự hào của quê hương đất nước.
GS,TS Bùi Danh Lưu, một nhà khoa học và quản lý tài năng Ngày 29-12, tại Hà Nội, Tạp chí Môi trường và Đô thị Việt Nam phối hợp Viện Nghiên cứu, Bảo tồn và Phát huy Văn hóa dân tộc tổ chức tọa đàm "GS,TS Bùi Danh Lưu - Một trí thức tài năng, nhà lãnh đạo và quản lý tâm huyết của ngành giao thông vận tải Việt Nam". Các đại biểu tham dự...