“Danh hiệu 3 nhất ở miền Tây giờ không còn nhất nào nữa”
Đó là ý kiến đặc biệt nhấn mạnh của Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh Trần Trí Dũng khi nói về lĩnh vực nông nghiệp nông thôn tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2017 của Ban chỉ đạo Tây Nam bộ được tổ chức tại TP.Cần Thơ vào ngày 29.6.
Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ phát biểu tại hội nghị.
Ông Trần Trí Dũng – Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh nói: “Tôi mới nghe nói, 13 tỉnh , thành ĐBSCL không có tỉnh nào tự cân đối được nguồn ngân sách, tất cả đều rất khó khăn. Trong khi đó, ngoài vùng chúng ta, nhiều địa phương, có cả tỉnh lẻ, không nằm trong trung tâm nhưng vẫn tự cân đối ngân sách được. Tôi rất tiếc về vấn đề này”.
Ông Dũng nói thêm: “Nhiều năm trước đây, ĐSBCL là một trong những vùng phát triển nhất của cả nước, thường được gọi với danh hiệu là 3 nhất, cụ thể là thuỷ sản nhất, lúa nhất và trái cây nhất, giờ coi như không còn nhất nữa. Tương tai, nếu không có quan tâm đầu tư thì nông nghiệp sẽ tiếp tục gặp khó và không thể phát triển”.
Trước tình trạng trên, ông Dũng đề nghị Chính phủ, Ban chỉ đạo Tây Nam bộ và các đơn vị có liên quan nghiên cứu hỗ trợ nông dân tránh tình trạng được mùa mất giá, 3 sản phẩm chủ lực của nông dân làm ra khó tiêu thụ. Đồng thời, có dự báo thông tin thị trường để các tỉnh nắm để từ đó cân đối sản lượng. Tránh tình trạng, khi xảy ra tình trạng khó khăn trên thì đổ thừa cho địa phương không quy hoạch, nói nông dân tự phát.
Theo ông Sơn Minh Thắng – Phó trưởng Ban thường trực Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, trong 6 tháng đầu năm 2017, tổng sản phẩm toàn vùng (GRDP) ước đạt 253,7 nghìn tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng 6,45% (trong khi đó cùng kỳ năm trước tăng trưởng ước đạt 6,5%).
Ông Trần Trí Dũng – Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh nói về khó khăn trong sản xuất nông nghiệp vùng Tây Nam Bộ
“Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng thấp hơn so với cùng kỳ. Ở một số địa phương, do ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh nên năng suất nông nghiệp không cao, sản phẩm tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, nhất là trong chăn nuôi heo. Tình hình sạt lở bờ sông, bờ biển phức tạp cũng làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất của người dân.” – ông Thắng nói.
Video đang HOT
Ông Thắng nhận định, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên là do công tác quy hoạch, liên kết vùng còn nhiều bất cập, cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế. Đặc biệt là sản xuất nông nghiệp chưa gắn với thị trường.
Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ cũng cho rằng, tốc độ tăng trưởng ngành sản xuất nông nghiệp của vùng chỉ đạt 2,07%, thấp hơn mức của cả nước là 2,65%. Mặc dù những tháng đầu năm không có hạn hán, xâm nhập mặn nhưng mưa nhiều làm năng suất, sản lượng sụt giảm. Ngoài nguyên nhân về thời tiết, nông nghiệp gặp khó khăn còn do thu hút đầu tư nước ngoài chưa thật sự sáng sủa.
Nông dân trồng dưa hấu ở ĐBSCL gặp khó khăn về đầu ra
“Vì vậy, chúng ta cần tăng cường quan tâm và đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hơn trong thời gian tới, đặc biệt lưu ý thu hút doanh nghiệp đầu tư vào này. Tiếp tục triển khai ra các phần việc cụ thể về vấn đề liên kết vùng, nếu có vướng mắc Ban chỉ đạo Tây Nam bộ và các địa phương phải báo cáo Chính phủ để sớm có quyết sách mạnh mẽ hơn’” – Phó thủ tướng nhấn mạnh.
Riêng về phương hướng 6 tháng cuối năm, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết, Ban chỉ đạo Tây Nam bộ cần tập trung tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề, các sự kiện xúc tiến vào ĐBSCL, thu hút tài trợ quốc tế, tìm giải pháp căn cơ giải quyết tình trạng sạt lở trình Chính phủ trong thời gian tới…
Theo Danviet
Miền Tây lo ‘giữ’ lũ
Sau 20 năm rầm rộ đắp những tuyến đê bao khép kín ngăn lũ, đến nay miền Tây lại phải tính chuyện "giữ" lũ như một giải pháp cứu cả đồng bằng.
Tuyến đê bao ngăn lũ ở Tứ Giác Long Xuyên
Không thể phủ định những thành tựu từ việc đắp đê bao ngăn lũ đưa nước ta từ một nước thiếu ăn thành xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, song những hệ lụy từ đê bao đang mỗi lúc thêm tệ hại.
Trong buổi tọa đàm "Tái cơ cấu nông nghiệp trong điều kiện thích nghi với biến đổi khí hậu" do UBND tỉnh Đồng Tháp tổ chức mới đây, nhiều nhà khoa học khẳng định đê bao khép kín, sản xuất lúa vụ 3 mặc dù đem lại sự tăng trưởng mạnh về sản lượng nhưng cũng tạo ra những thiệt hại nặng nề cho vùng này, đặc biệt là làm giảm đi nguồn cá, mất phù sa, đồng ruộng bạc màu, dịch bệnh phát triển, nông dân phải sử dụng nhiều phân bón, ô nhiễm môi trường...
Đê bao càng dài, mặn càng lấn sâu
Những năm 1990, khi các tuyến đê bao khép kín ngăn lũ hình thành, người dân phấn khởi vì có thể làm lúa ngay mùa nước nổi. Cùng với dự án thoát lũ ra biển Tây (An Giang, Kiên Giang), cứ thế những tuyến đê bao ngăn lũ ngày càng được đắp dài ở hai vùng trũng là Đồng Tháp Mười (phía tả ngạn thuộc các tỉnh Đồng Tháp, Tiề.n Giang, Long An) và vùng Tứ Giác Long Xuyên (phía hữu ngạn thuộc An Giang, Kiên Giang).
Đến nay, hệ thống đê bao khép kín có tổng chiều dài khoảng 7.000 km, đưa hàng triệu người dân ổn định nhà cửa phía trong đê. Khắp nơi, người dân say sưa làm lúa vụ 3, thậm chí trong 2 năm làm 7 vụ lúa. Sản lượng lúa gia tăng nhanh chóng, đưa VN trở thành một trong 3 nước xuất khẩu gạo nhiều nhất thế giới.
Đồng Tháp Mười là cơ may cuối cùng cho việc trữ nước, "cứu" mặn cho cả ĐBSCL vào mùa khô. Vì thế, phải bằng mọi giá giữ lại Đồng Tháp Mười, đồng thời chuyển những dự án thoát lũ ra biển Tây thành dự án giữ lũ Theo PGS-TS Lê Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu thuộc Trường ĐH Cần Thơ
Theo thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia độc lập về thủy điện và sông Mê Kông, từ xa xưa hạ lưu sông Mê Kông được thiên nhiên "ban" cho 3 "túi điều hòa nước" là Biển Hồ (Tonle Sap) ở Campuchia, vùng Đồng Tháp Mười và vùng Tứ Giác Long Xuyên. 3 túi nước này như 3 trái tim điều hòa nước cho những dòng nhánh đan xen như mạch má.u của sông Mê Kông.
Hằng năm khi lũ sông Mê Kông đổ về làm cho Biển Hồ tăng diện tích chứa nước từ 300.000 ha trong mùa khô lên 1,5 triệu ha. Từ Biển Hồ nước chảy vào Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên làm cho hai vùng này ngập sâu 3 - 4 m. Từ đây, nước nhả dần dần ra sông Tiề.n, sông Hậu, vào mùa khô đẩy nước mặn xâm nhập từ biển vào. Thế nhưng, sau khi hình thành hệ thống đê bao khép kín, một khảo sát từ năm 2000 đến 2011 cho thấy lượng nước ở Tứ Giác Long Xuyên đã giảm từ 9,2 tỉ m3 xuống còn khoảng 4,5 tỉ m3 do diện tích khoảng 1.100 km2 ô đê bao khép kín ngăn lại.
"Điều này cũng đồng nghĩa ĐBSCL đã mất 4,7 tỉ m3 nước để đẩy mặn trong mùa khô cho vùng ven biển. Hai vùng trũng Tứ Giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười không còn nước tích trữ đủ để bổ sung cho sông Tiề.n, sông Hậu đẩy nước mặn ra xa nên xâm nhập mặn lại càng lấn sâu. Tệ hơn khi biến đổi khí hậu càng tác động mạnh, El Nino gây hạn hán xảy ra khắp lưu vực sông Mê Kông", ông Thiện nói.
Giữ lũ và điều hòa
Theo PGS-TS Lê Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu thuộc Trường ĐH Cần Thơ, may mắn là ĐBSCL vẫn còn một Đồng Tháp Mười chưa bị "đê bao hóa" hoàn toàn. "Đồng Tháp Mười là cơ may cuối cùng cho việc trữ nước, "cứu" mặn cho cả ĐBSCL vào mùa khô. Vì thế, phải bằng mọi giá giữ lại Đồng Tháp Mười, đồng thời chuyển những dự án thoát lũ ra biển Tây thành dự án giữ lũ", ông Tuấn kiến nghị.
Lũ về thấp, thủy sản đán.h bắt ở vùng đầu nguồn ĐBSCL cũng dần cạn kiệt
Chung quan điểm này, thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện cho biết thêm: "Hiện phía bắc của tỉnh Đồng Tháp là khu vực ngập sâu trong mùa lũ với diện tích 35.000 ha, nếu không xây dựng đê bao ngăn lũ, khu vực này đủ sức giúp cả ĐBSCL trữ nước và đẩy mặn vào mùa khô cho toàn bộ hệ thống sông Cửu Long. Nói cách khác, Đồng Tháp Mười sẽ vừa là nơi trữ nước vừa điều hòa, giữ ngọt, đẩy mặn cho cả vùng".
Ông Thiện cũng cho rằng, cùng với việc giữ lũ thì các tỉnh thành ĐBSCL cần xem xét giảm diện tích trồng lúa vụ 3 để đất đai được nghỉ ngơi, tập trung vào chất lượng và chuỗi giá trị sản phẩm.
Trong khi đó, GS-TS Võ Tòng Xuân, chuyên gia nông nghiệp, Hiệu trưởng Trường ĐH Nam Cần Thơ, cho rằng câu chuyện làm đê bao ngăn nước mặn, trữ nước ngọt vùng bán đảo Cà Mau cần xem lại. Cũng như đê bao ngăn lũ, rất nhiều vấn đề nảy sinh sau đê bao ngăn mặn, như cuộc chiến lấy nước mặn - nước ngọt giữa người nuôi tôm và người trồng lúa. Rất nhiều cánh đồng lúa chế.t vì thiếu nước ngọt nhưng cũng không ít ao tôm thiệt hại vì thiếu nước mặn do đê bao.
Cũng trong buổi tọa đàm, các nhà khoa học của ĐBSCL đã đưa ra con số khảo sát thực tế khiến nhiều người giật mình. Cụ thể, nông dân ở TX.Hồng Ngự (Đồng Tháp) sản xuất 2 vụ lúa/năm thu nhập được 31 triệu đồng/ha; còn nông dân làm 3 vụ lúa/năm thu được 37 triệu đồng/ha. Số tiề.n chênh lệch giữa làm 2 vụ lúa/năm và 3 vụ lúa/năm chỉ là 6 triệu đồng/ha. Một con số quá nhỏ so với sức người và chi phí đắp đê.
Một nghiên cứu tại tỉnh An Giang còn chỉ ra rằng, cứ sau 15 năm làm lúa vụ 3, xã hội sẽ mất đi 47,8 triệu đồng/ha từ những chi phí đắp đê và những tổn thất khác như mất phù sa, thoái hóa đất, mất nguồn cá, tăng lượng phân bón... Điều này cho thấy, đê bao ngăn lũ và lúa vụ 3 không thực sự giúp nông dân khá hơn.
Theo Thanh Niên
Miền Tây có nguy cơ biến mất vì không còn lũ Không còn được lũ mang dòng phù sa bồi đắp hàng năm, miền Tây - vựa lúa, thủy sản, trái cây lớn của cả nước - đang đối mặt việc bị lún sâu, sạt lở và tan rã dần. Hiện lượng phù sa từ sông Mekong đổ về miền Tây hàng năm đã sụt giảm 50% . Ảnh: Cửu Long Đồng bằng sông...