Đại gia ngủ siêu giường, nhà chăng thép gai có sướng?
Để tới lúc phải chăng dây thép gai dẫn điện quanh dinh thự, và thuê hàng đại đội vệ sĩ đưa con đi học, thì lúc đó đêm đêm ngủ trên cái giường, dẫu 6 tỉ hay 60 tỉ, liệu có sung sướng?
Không ai phủ nhận là một sự chênh lệch giàu nghèo nhất định trong xã hội là tự nhiên, thậm chí là cần thiết. Tự nhiên, vì tài năng, sức khoẻ, sự chăm chỉ và may mắn được phân bổ không đồng đều giữa các thành viên trong xã hội. Cần thiết, bởi nó là động lực thúc đẩy và ban thưởng cho những người sáng tạo, chăm chỉ và chấp nhận rủi ro. Nông dân trong các hợp tác xã thời bao cấp không ra đồng bởi họ thấy có cố gắng cũng chẳng được gì hơn nguời khác.
Tuy nhiên, sự chênh lệch giầu nghèo quá mức, được thể hiện qua các ví dụ ở phần I, đang bắt xã hội phải trả những giá đắt.
Bất lợi cho tăng trưởng
Phân hoá giầu nghèo quá mức dẫn tới một nền kinh tế kém hiệu quả. Khi nguồn vốn và tài nguyên chỉ tập trung ở một nhóm nhỏ, sức mua trong xã hội, và qua đó, tăng trưởng kinh tế, bị kìm hãm. Thêm nữa, phần tăng trưởng đã ít ỏi này lại chủ yếu chảy vào túi những người vốn đã giầu, tiếp tục vòng xoáy trôn ốc phân hoá này. Ngược lại, nếu tiề.n được chia đều hơn trong xã hội, khả năng chi tiêu của xã hội sẽ được nâng lên, dẫn tới tăng trưởng và làm giảm phân hoá giầu nghèo.
Gần đây nhất, các nhà kinh tế học Berg và Ostry chỉ ra rằng thể chế chính trị, tự do thương mại và bình đẳng trong thu nhập là ba yếu tố quan trọng nhất để có thể kéo dài các giai đoạn tăng trưởng của một nền kinh tế (một giai đoạn tăng trưởng thường nằm kẹp giữa hai giai đoạn trì trệ). Theo các tác giả, phân hoá thu nhập cao sẽ khuyếch đại các nguy cơ khủng hoảng tài chính, xua đuổi các nhà đầu tư, và gây khó khăn cho chính phủ khi cần đưa ra các chính sách đối phó với các cú shock kinh tế.
Ăn mòn hệ thống chính trị
Tiề.n bạc là sức mạnh. Tiề.n bạc tập trung đem lại quyền lực tập trung cho các nhóm lợi ích. Phân hoá giàu nghèo quá mức sẽ ăn mòn tính dân chủ và xâm hại tới hệ thống quản trị nhà nước, bởi khi đó tiếng nói của một số đông dân chúng bị ra rìa.
Đặc trưng của các nhóm lợi ích là tìm kiếm đặc lợi (“rent seeking”), một hành vi khéo léo, nằm trong bóng tối, nhằm “vặt lông con ngỗng để làm sao có được nhiều lông nhất, trong khi làm ngỗng kêu ít nhất”. Các ví dụ kinh điển của nghệ thuật vặt lông ngỗng này là tác động lên chính sách nhà nước để bảo vệ độc quyền, bán sản phẩm và dịch vụ cho chính phủ và công chúng với mức giá cao, tiếp cận được nguồn lực công như đất đai hay khoáng sản với giá thấp hơn thị trường.
Tìm kiếm đặc lợi không chỉ hay xẩy ra ở các quốc gia nhiều tham nhũng và có thượng tôn pháp luật yếu kém, mà cả ở các nước phát triển, như đã được nêu ra trong cuốn “Cái giá của sự bất bình đẳng” của Joseph Stiglitz, nhà kinh tế học được giả.i thưởn.g Nobel năm 2001.
“Siêu giường” gây ồn ào của một đại gia
“Siêu giường” gây ồn ào của một đại gia
Phá huỷ gắn kết xã hội
Video đang HOT
Hai tác giả Wilkinson và Pickett đã so sánh giữa các quốc gia phát triển, cũng như giữa 50 bang của Mỹ, để chỉ ra rằng gần như tất cả các vấn đề xã hội hiện đại: bệnh tật, tội phạm, đời sống cộng đồng rời rạc, thiếu niên mang thai v.v… đều xẩy ra nhiều hơn ở những nơi có mức bất bình đẳng cao hơn. Điều đó cũng giải thích vì sao so với các quốc gia phát triển khác thì Mỹ có tuổ.i thọ trung bình thấp hơn và nhiều nhà tù hơn. Theo Robert Putnam, sự gia tăng của sự bất bình đẳng trong năm thập kỷ qua là một trong những lý do chính phá huỷ vốn xã hội, sự gắn kết và tính cộng đồng trong xã hội Mỹ ngày nay.
Phân hoá giầu nghèo tạo ra cảm giác bất công. Chỉ cần nhìn vào xuất thân của các sinh viên Trung Quốc đang theo học ở các trường đại học hàng đầu của Mỹ thì có thể thấy giới nào đang có lợi thế trong cuộc đua xã hội, để rồi thế hệ qua thế hệ, ngày càng đào sâu cái hố phân cách.
Nhưng ngay cả người giầu cũng không được sống yên ổn trong một xã hội phân hoá cực đoan. Bất công là nguồn gốc của bạo lực. Ở Nam Phi, các biệt thự đều có dây thép gai vây kín chung quanh, trở thành những nhà tù cao cấp. Ở Trung Quốc, dịch vụ đào tạo vệ sĩ cho những gia đình giầu có đang bùng nổ. Ở Mỹ và các nước phương Tây, phong trào “Chúng ta là 99%” và Occupy cho thấy đám đông đang thực sự nổi giận.
Trước những vấn đề này, các quốc gia đã bắt đầu hành động. Cuối 2013, toà án tối cao Pháp thông qua mức thuế 75% cho tất cả các thu nhập vượt 1 triệu Euro một năm. EU ban hành một điều luật giới hạn mức thưởng ở các ngân hàng chỉ được tối đa bằng hai lần mức lương.
Đầu năm ngoái, 68% người dân Thuỵ Sĩ bỏ phiếu cho phép các cổ đông có quyền hạn chế mức lương và thưởng của lãnh đạo công ty. Tổ chức nhân đạo Oxfam của Anh kêu gọi chấm dứt “nạn” giầu có quá mức vào năm 2025 trong một thế giới với nguồn lực hữu hạn, nghèo đói chỉ có thể được giải quyết nếu chênh lệch giầu nghèo cực đoan được chấm dứt.
Sau gần 80 năm, phát biểu của tổng thống Roosevelt vào năm 1936 vẫn còn nguyên tính thời sự: “Sự bình đẳng chính trị mà chúng ta đã dành được đã vô nghĩa trước sự bất bình đẳng kinh tế. Một nhóm nhỏ nắm trong tay sự kiểm soát gần như hoàn toàn tài sản của người khác, tiề.n của người khác, sức lao động của người khác – cuộc sống của nguời khác. Với nhiều người trong chúng ta, cuộc sống không còn tự do nữa, sự giải phóng không còn thực sự nữa, người dân không còn có thể mưu cầu hạnh phúc.”
Và vì vậy, thay cho tự hào vì đã có tỉ phú đô-la, chúng ta hãy cố gắng để có thể tự hào về mức tăng của tuổ.i thọ trung bình hay của số lượng tr.ẻ e.m tới trường.
Trước khi Việt Nam có thể cải thiện các thể chế của mình và diệt trừ tham nhũng để đem lại công bằng và cơ hội cho số đông, về phần mình, các đại gia Việt có thể suy nghĩ để học tập Bill Gates hay Warren Buffet trong việc trao tặng xã hội của cải của mình. Bởi vì kể cả ngày nào cũng ngủ ở khách sạn Burj Al Arab thì tới mấy đời cũng chẳng thể nào tiêu hết tài sản.
Mặt khác, để tới lúc phải chăng dây thép gai dẫn điện quanh dinh thự, và thuê hàng đại đội vệ sĩ đưa con đi học, thì lúc đó đêm đêm ngủ trên cái giường, dẫu 6 tỉ hay 60 tỉ, liệu có sung sướng?
Theo_VietNamNet
Thị trường làm biến dạng tư duy?
Thị trường có thể ảnh hưởng giá trị tư tại của một phẩm vật khi nó được mua bán bằng tiề.n.Trong nhiều trường hợp, giá trị trên thị trường ắt hẳn những giá trị phi thị trường, mà chính những giá trị thị phi trường này mới đáng giữ.
Không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết mọi quốc gia trên thế giới, khi kinh tế thị trường ngày càng phát triển, mọi sinh hoạt mọi hàng hóa, mọi dịch vụ dường như ngày càng " thương mại hóa", đã nổi lên nhiều ưu tư về sự suy thoái đạo đức của xã hội lẫn con người.
Có người giải thích sự kiện này với khẳng định: Thị trường khiến con người tham lam hơn, xấu xa hơn. Song, như nhiều học giả đã lý luận: Lòng tham thì vô bờ bến, nhưng tính xấu của con người thì đã có từ khi loại người xuất hiện trên địa cầu, và chắc chắn sẽ tiếp tục cho đến ngày tận thế, trong bất cứ thể chế chính trị hoặc kinh tế nào.
Thế nên, đi tìm lý do của suy kiệt đạo đức (nếu có) đặc thù của kinh tế thị trường thì phải đưa bằng chứng là hiện tượng ấy gắn liền với những đặc tính cá biệt của thị trường, chứ không phải chỉ vị bản tính chung chung của loại người.
Vài năm gần đây, người có nhiều đóng góp nhất về vấn đề này có lẽ là Michael Sandel, Giáo sư triết học của Đại học Harvard. Khởi điểm lý luận của Sandl là câu hỏi: Vì bản chất của thị trường là thương mại, có chăng những loại phẩm vật (hàng hóa hoặc dịch vụ) mà, xét theo một tiêu chuẩn đạo đức nào đó, không nên đươc mua bán trên thị trường? Theo Sandel, nếu có những vật phẩm như thế thì sự xuất hiện thị trường cho chúng trong một xã hội sẽ làm suy bại đạo đức của xã hội ấy.
Để trả lời câu hỏi "tiền nên mua được cái gì" Sandel đề nghị hai tiêu chuẩn một là sự công bằng, hai là sự tổn thương các giá trị đạo đức.
Thứ nhất, sự lựa chọn ( trong việc mua bán ) trong một thị trường có thể phán ảnh sự bất bình đẳng thu nhập và, quan trong hơn, bất công bằng trong xã hội. Trong một xã hội mà mọi thứ đều có thể bán và mua cuộc sống của những người có thu nhập khiêm tốn sẽ khó khăn hơn. Tiề.n càng mua được nhiều thứ thì sự dồi dào tiề.n bạc càng quan trọng. Nói rõ hơn nếu lợi thế của người giàu chỉ có thể là mua xe sang, nhà đẹp, dùng hàng hiệu, du lịch nước ngoài, thì sự bất quân bình thu nhập (tuy sẽ tạo ganh tỵ) cũng không gây nhiều hậu quả tại hại.
Nhưng trên thực tế thì tiề.n bạc còn mua được nhiều thứ nữa: Thế lực chính trị, sức khỏe, biệt thự ở khu yên tĩnh, và con cái thì được vào những trường ưu tú...Chính những thứ này sẽ khiến độ chênh lệch thu nhập ngày càng lớn, làm sâu thêm sự bất công trong một nước và gây những chia rẽ trong xã hội nặng nề hơn từ thế hệ này sang những thế hệ tương lai...
Chính vì thế theo Sandel, xã hội phải hạn chế quyền lực của tiề.n bạc để giãm những hậu quả tai hại của những sự không bình đẳng ấy. Đặt một số hàng hóa dịch vụ ra ngoài sự chi phối của thị trường là một cách chặn bớt hậu quả tai hại của sự bất công bằng xã hội.
Đâu là vai trò tầm mức thâm nhập của thị trường vào đời sống cộng đồng, vào liên hệ giữa con người với nhau? Đến mức nào thì chúng ta có thể cho phép thị trường làm biến dạng tư duy của chúng ta?
Thứ hai, thị trường của một phẩm vật có thể gây thương tổn cho những giá trị của con người và xã hội. Nhìn quanh, ta thấy ngay có nhiều thứ rất tốt đẹp (tình bạn, chẳng hạn) nhưng khi gán cho một giá tiề.n thì giá trị của chúng sẽ gần như không còn nữa.
Một người mà anh phải trả tiề.n mới nhận làm (bạn) của anh thì rõ ràng không phải là bạn anh. Đừng nhầm lẫn tổng thể một thứ tốt đẹp như thế và những dịch vụ mà nó có thể "cung cấp" cho anh. Anh có thể thuê một người trông nhà (dịch vụ của một người bạn) khi anh đi vắng, thậm chí anh có thể thuê một cố vấn tâm lý để nghe anh giãi bày "tâm sự", nhưng hiển nhiên, những người này không phải là "bạn"anh theo cái nghĩa thật sự của chữ này.
Nói cách hoa mỹ, thị trường không phải là một cơ chế để phân bổ hàng hóa và dịch vụ, nó còn phản ánh và khuyến khích một thái độ nào đó đối với những hàng hóa hoặc hàng hóa được trao đổi. Thái độ này biến đổi chính bản chất của hàng hóa hoặc dịch vụ ấy.
Một ví dụ khác: khi cha mẹ cho con tiề.n để nó đọc sách nhiều hơn thì đúng là đứ.a b.é ấy có thể đọc nhiều hơn, những đứa con ấy cũng gián tiếp dạy rằng là một "cực hình" hơn là một thú vui có giá trị tự tại.
Tương tự, thuê người nước ngoài để chiến đấu cho chúng ta có thể tiết kiệm sinh mạng đồng bào ta, nhưng cũng làm suy kiệt ý niệm "công dân" một nước. Như vậy, Sandel lý luận, có nhiều thứ tiề.n không thể mua, bởi những thứ ấy mà được bán thì chúng ta không còn là chúng ta nữa.
Trên thực tế , hai tác hại của một số thị trường như đã nói trên (không công bằng và tổn thương đạo đức) thường quyện quấn vào nhau, và không bao giờ cũng trắng đen rõ ràng: Có nhiều mức độ "không công bằng" và nhiều mức độ "tổn thương đạo đức".
Lấy "thị trường nội tạng" (để ghép) của con người làm ví dụ. Dù rằng tiề.n có thể mua một quả thận, một nhãn cầu, mà không làm giảm giá trị y khoa của chung, nhưng có cho phép nội tạng được tự do mua bán không?
Có hai lý do để ngăn cấm sự mua bán này: Một, thị trường ấy sẽ có khuynh hướng bóc lột những người cung cực nghèo khổ. Khó nói rằng quyết định bán thận của họ (để mua thức ăn chẳng hạn) là hoàn toàn"tự nguyện". Cho phép một thị trường như thế tồn tại là vi phạm tiêu chuẩn "công bằng" chẳng khác gì cho phép người giàu bóc lột người nghèo. Hai, thị trường ấy sẽ làm tổn thương nhân phẩm, vì trong một xã hội như thế thì hóa ra con người chỉ là một tổ hợp những "linh kiện" (má.u, mắt, thận, tim, phổi...) có thể lấy từ thân thể người bán thay thế những bộ phận " hỏng hóc" ở thân thể người mua. Rõ ràng tư duy ấy sẽ xúc phạm trầm trọng chuẩn mực đạo đức của đa số chúng ta.
Tr.ẻ e.m là một ví dụ. Hiển nhiên, nếu muốn, chúng ta có thể cho phép một "thị trường"con nuôi. Nhưng không nên cho phép thị trường ấy vì hai lý do: Thứ nhất là vì công bằng. Một thị trường như thế sẽ thiên vị những người giàu có, bởi lẽ những người thu nhập thấp mà muốn có con nuôi thì chỉ "mua " được những đứ.a tr.ẻ ít người muốn "mua" (vì đứ.a b.é có dị tật hay thiểu năng, chẳng hạn). Thứ hai là thị trường ấy sẽ xúc phạm những giá trị nhân bản ấy. Gắn cho tr.ẻ e.m một giá trị chuẩn mực "yêu thương" vô điều kiện" của cha mẹ đối với con cái, mà mọi xã hội xưa nay đều coi là thiêng liêng, sẽ không còn nữa.
Hơn nữa, sự chênh lệch giá cả (chắc chắn sẽ xảy ra) giữa em này với em khác sẽ cũng cố ấn tượng rằng giá trị một đứ.a b.é phù thuộc vào chủng tộc, giới tính, tiềm năng trí tuệ, thể hình của nó. Tương tự "thị trường"nô lệ là kinh tởm vì nó xem con người như một loại hàng hóa, có thể (đấu giá) bán và mua"nhân phẩm"là vô nghĩa trong những cuộc đấu giá như thế.
Một ví dụ nữa: Lá phiếu của công dân một quốc gia dân chủ cũng không thể mua hoặc bán (dù có người sẵn sàng mua!) vì bổn phận mỗi người dân là trách nhiệm công đồng, không thể xem là sở hữu của cá nhân. Cho phép mua bán lá phiếu hạ thấp giá trị của nó, cho nó một nghĩa khác.
Những ví dụ trên đầy đủ cho thấy giá trị của nhiều vật phẩm sẽ sút giảm, hoặc mất hẳn, nếu chúng có thể được bán trên thị trường. Khi chúng ta quyết định rằng một hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó có thể mua và bán là chúng ta mặc nhiên chấp nhận rằng hàng hóa ấy có thể được xem như một món đồ, là một công cụ để sử dụng kiếm lời. Không phải giá của mọi thứ (ví dụ sức khỏe, giáo dục, đời sống gia đình, thiên nhiên, nghệ thuật, trách nhiệm công dân....) đều là như vậy. Để quyết định thứ nào được phép buôn bán, thứ nào không xã hội phải thỏa thuận cách thẩm định giá trị thật của chúng. Đó là vấn đề thuộc phạm trù đạo đức và chính trị, không chỉ kinh tế, và lời giải sẽ tùy mỗi trường hợp, không có một đáp số chung cho mọi thứ, mọi thời.
Cho đến gần đây một giả định căn bản trong kinh tế học là sự "trung tính" của thị trường, nghĩa là bản chất hàng hóa hoặc dịch vụ được trao đổi sẽ không bị ảnh hưởng của thị trường. Nhưng Sandel và nhiều người khác đã phát hiện giả định này không luôn luôn đúng. Thị trường có thể ảnh hưởng giá trị tư tại của một phẩm vật khi nó được mua bán bằng tiề.n.Trong nhiều trường hợp, giá trị trên thị trường ắt hẳn những giá trị phi thị trường, mà chính những giá trị thị phi trường này mới đáng giữ.
Tất nhiên không phải mọi người đều đồng ý giá trị nào là đáng giữ và tại sao chúng đang giữ. Do đó, để quyết định cái gì nên được mua bán trên thị trường, và cái gì không nên, chúng ta phải quyết định giá trị nào cần được bảo tồn trong bối cảnh khác nhau.
Theo Sandel, nên phân biệt kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là một công cụ để cơ cấu hoạt động sản xuất và phân bổ sản phẩm. Dù không tuyệt hảo (ngay những nhà kinh tế chuộng thị trường cực đoan cũng nhìn nhận rằng thị trường có nhiều "thất bại" cần sự can thiệp của Nhà nước), công cụ ấy có những lợi ích và hiệu quả khó chối cãi.
Xã hội thị trường, mặt khác, là lối sống của con người trong xã hội trong đó giá trị thị trường chi phối mọi hoạt động tư duy.
Như vậy, thị trường ngoài nhưng "thất bại " theo nghĩa thông thường còn có những ảnh hưởng sâu sắc, có thể là tai hại, đến đạo đức xã hội. Chúng ta có muốn trở thành một xã hội thị trường trong đó những liên hệ xã hội được tái lập theo hình mẫu của thị trường không?
Đâu là vai trò tầm mức thâm nhập của thị trường vào đời sống cộng đồng, vào liên hệ giữa con người với nhau? Đến mức nào thì chúng ta có thể cho phép thị trường làm biến dạng tư duy của chúng ta?
Đó là những vấn đề cần suy nghĩ.
GS Trần Hữu Dũng
Theo Thời báo Kinh tế Sài gòn
(Tiêu đề do Tuần Việt Nam)
Theo VNN
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: "Báo chí phải xây dựng lòng tin, tạo đồng thuận trong xã hội" "Báo chí phải nói lên sự thật nhưng phải phục vụ lợi ích cho đất nước, cho nhân dân. Báo chí không chỉ đưa tin mà còn phải xây dựng lòng tin, tạo sự đồng thuận trong xã hội" . Đây là ý kiến của Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son đưa ra tại phiên thảo luận Quốc hội...