Đại gia đình chuyên vớt xác, cứu người
Sinh ra và lớn lên trên dòng sông Hương xứ Huế, anh em lão ngư Nguyễn Văn Nết (SN 1956) nối nghiệp gia đình làm nghề sông nước. Đến khi lên bờ định cư, họ vẫn gắn bó với nghề, và vẫn giữ nguyên tấm lòng thiện nguyện khi cứu được nhiều người nhảy sông, giúp nhiều gia đình tìm được t.hi t.hể người thân c.hết đ.uối…
Đau đáu những kỷ niệm
Xuất thân là dân vạn đò ở vùng Vĩ Dạ trên sông Hương, ông Nết là đời thứ tư, con thuyền trên sông Hương vừa là nhà, vừa là phương tiện mưu sinh của cả gia đình. Cũng như những cư dân vạn đò khác, gia đình ông Nết cùng các anh em ruột hàng ngày ngược xuôi trên dòng sông Hương thả lưới đ.ánh bắt con tôm, con cá mưu sinh qua ngày.
“Cha tôi là một thợ lặn nổi tiếng vùng sông Hương. Anh em tôi cũng thừa hưởng kinh nghiệm lặn giỏi từ ông, lặn xuống đáy sông sâu hơn hai chục sải tay người lớn là chuyện bình thường. Vì thế, anh em tôi còn đi lặn thuê để tìm những con tàu đắm trên biển, hay nhận các trụ cầu cũ dưới sông để lặn xuống cưa lấy sắt phế liệu… Và lặn sông tìm x.ác n.gười như cái nghiệp đã ngấm vào mấy anh em tôi, sau những lần được đi theo phụ giúp cha chèo thuyền, đưa xác nạn nhân lên bờ” – ông Nết chia sẻ.
Lão ngư Nguyễn Văn Nết kể chuyện cứu người, vớt xác
Những vụ cứu người, tìm kiếm t.hi t.hể người luôn để lại trong ông những kỷ niệm buồn. Ông Nết nhớ, năm 1988, khi phát hiện một t.hi t.hể trôi dạt vào bờ sông An Cựu ở cầu Kho Rèn, rất nhiều người dân hiếu kỳ và người đi đường dừng xe chen lấn nhau trên cầu để xem lực lượng chức năng khám nghiệm t.ử t.hi, dù trời mưa tầm tã. Cầu Kho Rèn thời điểm ấy đã rất “già nua”, nên khi dòng người đông đúc chen lấn đã làm lan can cầu bị gãy, kéo theo một mảng lớn mặt cầu cùng mấy chục người đang đứng trên cầu rơi xuống sông. Trong cơn hoảng loạn, họ bấu víu vào nhau nên rất nhiều người t.hiệt m.ạng trước khi được đưa lên bờ. “Vụ sập cầu Kho Rèn năm ấy thật kinh hoàng, tiếng khóc than dậy cả khúc sông… Chúng tôi ngụp lặn dưới nước từ 10h đêm đến 2h sáng vớt hơn 30 t.hi t.hể. Lúc ấy, ai cũng đã thấm mệt, nhưng do vẫn còn nạn nhân chưa được tìm thấy, nên ai cũng cố gắng tiếp tục lặn…” – ông Nết kể lại với cặp mắt hoe đỏ.
Đại gia đình ông Nết không thể nhớ hết đã lặn vớt bao nhiêu nạn nhân xấu số trong mấy chục năm qua, từ những trường hợp nạn nhân dại dột nhảy xuống sông t.ự t.ử vì tình, đến người bị tai nạn, vô tình bị sẩy chân…
Xót xa không kém là vụ hai chiếc thuyền chở cát tông nhau trên sông Hương cách đây hơn 4 năm. Ông Nết xúc động cho biết lúc lặn vào trong thuyền, ông thấy tay người mẹ vẫn nắm chặt thành nôi ru đứa con vẫn nằm trong nôi như say ngủ. Còn vụ chìm đò xảy ra trên sông Hương tháng 8/2003, nước sông Hương khi ấy rất đục, khu vực xảy ra tai nạn lại có rất nhiều hang hốc và ghềnh đá, kính thủy tinh bị vỡ lởm chởm dưới đáy sông vô cùng nguy hiểm, nên anh em ông phải nắm tay nhau dàn hàng ngang, để chẳng may có người gặp nguy hiểm thì còn biết để kịp cứu…
Video đang HOT
Làm việc thiện không mong ơn nghĩa
Với lão ngư Nguyễn Văn Nết, lặn sông tìm xác là việc làm phước chứ chẳng có thù lao. “Mỗi lần lặn vớt xác, gia đình nào có điều kiện tạ lễ cho vài trăm ngàn, anh em tôi dùng mua đồ cúng bái thần linh sông nước và người đã khuất, còn bao nhiêu thì mua ít rượu để uống cho đỡ lạnh sau khi lặn…” – ông Nết nói. Như sau cơn bão đổ bộ vào Thừa Thiên – Huế năm 1999, mấy anh em ông Nết được người dân thuê lặn vớt tôn, sắt thép đã bị cuốn trôi ở khu vực chân cầu Thuận, thì phát hiện x.ác n.gười bị c.hết đang trong giai đoạn p.hân h.ủy. Sau khi đưa xác nạn nhân lên bờ mà không thấy thân nhân đến nhận, anh em ông Nết đành bỏ t.iền túi ra mua ít vàng mã, hoa quả về cúng bái cho vong hồn người xấu số.
Gần chục năm nay, mấy anh em ông Nết đã được Nhà nước cấp đất lên bờ tái định cư ở thôn Lại Tân. Vợ chồng ông Nết cùng với 7 đứa con cũng đã lên bờ ở thôn La Ỷ, xã Phú Thượng, huyện Phú Vang. Nhưng dù đã lên bờ và đã có t.uổi, nhưng anh em ông Nết vẫn hàng ngày gắn bó với những con thuyền ngược xuôi trên dòng Hương Giang đ.ánh bắt tôm cá và sẵn sàng nhảy xuống nước cứu giúp khi có người cầu cứu. “Bây giờ tôm cá hiếm, ngày nào giỏi cũng chỉ kiếm được 100.000 đồng từ t.iền bán tôm, cá, nhưng nghề đã là nghiệp, không bỏ được. Hơn nữa, chúng tôi giữ nghề để con cháu cũng được truyền dạy kinh nghiệm, sau này có thể giúp đỡ được người khác… “- lão ngư Nguyễn Văn Nết chia sẻ.
Theo GTVT
Dị nhân chuyên nằm canh quan tài tại các đám ma
Ông là người tứ cố vô thân, sống nhờ ở từ đường của một dòng họ. Cả đời ông chẳng có gì ngoài cái tình với người c.hết. Khoảng 50 năm nay, ông giữ thói quen đến các đám ma chả quen biết.
"Bạn" của người c.hết
Chẳng cần quen biết, cũng chẳng ngại xa gần, cứ có đám ma là ông dị nhân ấy có mặt. Và với bản chất người quê hồn hậu, chẳng ai ở trong vùng nỡ xua đuổi vị khách lạ ấy. Cũng bởi thế, gần như cả cuộc đời, dị nhân Nguyễn Danh Hòa (tên thường gọi là Trì, 85 t.uổi, trú tại thôn 7 - Vũ Trung - Kiến Xương - Thái Bình) làm "bạn" với người c.hết, ông thường ăn cỗ nhà đám và nằm canh quan tài lúc đêm khuya giúp gia chủ.
Ở xã Vũ Trung, hỏi ông Trì "đám ma", ai cũng biết. Ông Trì không chỉ nổi tiếng trong xã mà cả những xã lân cận bởi đặc điểm này. Cứ nghe ngóng ở đâu có người mới c.hết là ông lại tìm đến. Ông cũng "có trước có sau" lắm, cũng dành dụm vài nghìn đồng mua bó hương và vài thếp t.iền vàng âm phủ mang đến viếng người đã khuất.
Ông Trì "nổi tiếng" khắp vùng vì sự xuất hiện ở các đám ma.
Đám nào cũng vậy, ông thường là khách viếng sớm nhất. Thường thì gia chủ làm lễ nhập quan xong là ông đã có mặt, ông thắp hương trước quan tài người c.hết và kể từ thời điểm đó đến khi quan tài được đưa đi chôn, ông quanh quẩn ở nhà đám. Ông Trì ăn đủ các bữa cơm ở nhà đám. Giờ cơm, họ dọn sẵn bàn với đầy đủ cơm canh, thịt thà và ông tự nhiên ngồi ăn. Có đám, ông Trì ngồi ăn một mình, cũng có khi ngồi cùng mâm cơm với người nhà hoặc những người đến giúp việc tại đám ma. Cơm nước xong xuôi, ông Trì vẫn cố thủ ở nhà đám trọn vẹn hai, ba ngày tang ma. Ông ngồi uống chén trà, nói dăm ba câu chuyện tầm phào với người đến phúng điếu.
Chẳng giúp được việc việc gì trong đám ma, ông chỉ quẩn quanh như thế, đến bữa lại ăn. Chỉ khi màn đêm buông xuống, ông Trì tự nhận mình có phận sự. Lúc đêm khuya, khi gia quyến người c.hết đã mệt lả, tìm chốn ngả lưng để lấy sức ngày hôm sau lo hậu sự thì ông bắt đầu phần việc rất tự giác. Chẳng cần ai nhờ vả, ông chủ động đến nằm bên cạnh quan tài đến sáng. Ông ngủ ngon lành, không thân quen với người nằm trong áo quan nhưng chẳng sợ sệt gì. Ông nhắm mắt như ngủ nhưng rất tỉnh, hương tàn, ông chủ động trở dậy để thắp.
Có dị nhân này nằm canh áo quan, gia quyến người c.hết yên tâm hoàn toàn bởi chẳng phút nào đèn tắt, hương tàn trên nắp quan tài. Ông Trì tâm niệm: "Cùng là con người, phải có bầu có bạn. Người c.hết cũng thế thôi, nghĩa tử là nghĩa tận, không để người ta cô đơn...". Cũng bởi tấm lòng ấy của ông Trì mà gia quyến người c.hết chẳng ai nỡ hắt hủi.
Ông Trì mồ côi bố mẹ từ nhỏ. Trên ông còn có người chị gái ruột, lấy chồng và sinh sống ở tận Quảng Ninh. Năm nay chị gái ông Trì cũng đã ở t.uổi 90. Gia đình chị gái cũng đuề huề con cái và kinh tế cũng đủ sống, nhưng kiến giải nhất phận, họ cũng chỉ có thể biếu cậu Trì vài trăm đến vài triệu mỗi khi có dịp về quê giỗ tổ. Nhưng ông Trì chẳng bao giờ giữ được t.iền, thường mua bán không tiếc tay. Ông Trì không có nhà, sống luôn ở từ đường dòng họ Nguyễn Công ở Vũ Trung từ nhỏ tới nay.
Người cháu gái thường ngày lo cơm nước cho ông Trì.
Ngày còn trẻ, ông thường mang theo kéo, lược, dao cạo...đi cắt tóc dạo để kiếm sống. T.iền kiếm được từ việc cắt tóc, ông dành dụm để hễ có đám ma là mua vàng hương đến phúng điếu. Sau này, ông bỏ hẳn nghề cắt tóc dạo, cứ lang thang đi bộ khắp xã, sang cả những xã lân cận để đến đám ma. Ông chẳng có phương tiện đi lại gì, bất kể xa gần, chỉ đi bộ. Đôi chân trần của ông Trì đã đi không biết bao nhiêu đường đất ở vùng này. Khoảng 50 năm nay, ông giữ thói quen đến các đám ma như thế.
Nhưng khoảng hơn một năm nay, sau lần đi đám ma về, bị xe máy "tông" gẫy chân, ông Trì chẳng còn tìm đến làm "bạn" với người c.hết được nữa. Ông ở lỳ trong khu từ đường ấy, hàng ngày nhận sự giúp đỡ từ cô cháu gái lấy chồng gần đó. "Những ngày mới bị xe đ.âm, chân gẫy không thể đi lại được, mọi vệ sinh cá nhân của ông cụ tôi đều phải tự làm cả. Giờ thì cụ nhúc nhắc đi lại được rồi, cũng đỡ hơn. Ngày đủ ba bữa, tôi phải cơm bưng nước rót cho cụ. Mấy năm nay, được xã xét hoàn cảnh, ông cụ được hưởng trợ cấp 180 nghìn/tháng. Nhưng với chừng đó, chẳng thấm tháp gì. Tôi làm đơn đề nghị lên xã, huyện để được tăng mức trợ cấp mà từ năm ngoái đến giờ chưa được giải quyết...." bà Phạm Thị Thái (hơn 50 t.uổi), cháu gái ông Trì cho biết.
Biệt tài của dị nhân
Trong gian từ đường đã xuống cấp, mọi vật dụng của ông Trì vỏn vẹn chỉ có vài bộ quần áo cũ mèm, chiếc quạt điện mà cánh của nó tựa như răng bà lão t.uổi xế chiều, cái còn cái mất...Thứ duy nhất được gìn giữ, trân trọng trong số những đồ dùng cá nhân ấy, đó là một quyển sổ tay dày cộp. Tôi không khỏi ngạc nhiên bởi giữa những bộn bề thiếu thốn, rách nát, ông Trì lại có một thú vui tao nhã đến thế. "Đấy là cuốn sổ ghi những vần thơ đấy..." mắt ông Trì ánh lên chút vui vui. Rồi chẳng cần phải nhìn vào cuốn sổ, ông đọc vanh vách những vần thơ, mặc cho tôi lật giở từng trang viết trong sự ngỡ ngàng.
Ông Trì rất trân trọng những vần thơ
Cuốn sổ thơ của ông Trì có cả những bài thơ tự sáng tác, cả những bài yêu thích sao chép lại. Thơ ông viết khá khúc triết, vần điệu và chủ đề cũng khá phong phú. Có khi ông viết lên những tâm sự, khát khao ẩn sâu trong lòng mà người đời chẳng thể hiểu được, con người có chút gàn gàn, "không bình thường" như ông lại chất chứa đến thế. "Em là phụ nữ rất yêu chồng/ Biết ôm, biết ấp những đêm đông/ Biết giơ tay quạt khi nóng nực..." tiếng đọc thơ của ông Trì đều đều vang lên.
Ông Trì viết nhiều thơ, ngay cả sự kiện bị xe máy đ.âm gẫy chân hơn 1 năm về trước cũng được viết thành thơ. Thơ về cái xe hon-đa của ông ẩn ức, chất chứa cả sự oán trách. "Từ ngày có cái hon-đa/ Kẻ thì tan lạc, người ra cánh đồng.../Mình mà c.hết mất thì thôi/ Người ta mà c.hết phải đền bằng hai/ Hon đa ơi hỡi hon đa...". Ông Trì cứ mải miết đọc hết bài thơ này đến bài thơ khác, dường như lâu lắm ông mới có dịp nói chuyện, lâu lắm mới có người lắng nghe ông nói.
Nhìn những dòng chữ nắn nót khá đẹp, tôi đoán ông Trì xưa kia chắc hẳn cũng được ăn học đến nơi đến chốn. Bà Thái - cháu gái ông Trì - lắc đầu bảo: "Mẹ tôi kể, cậu Trì chỉ được học đến lớp 3 lớp 4 gì đó thôi. Nhà nghèo quá, hai chị em rau cháo từng ngày nuôi nhau, lấy đâu ra điều kiện học hành. Thế nhưng ông cụ chữ đẹp lắm đấy!". Quả thực chữ ông Trì đẹp. Thường thì ở vào t.uổi già yếu như ông, nét chữ cũng sẽ run rẩy, xiêu vẹo đi ít nhiều. Nhưng cả cuốn sổ ghi chép, chữ vẫn đều tăm tắp, ngay cả những bài thơ viết gần đây nhất, chữ vẫn đẹp, rõ ràng và không thiếu nét, thảng lắm mới thấy một lỗi chính tả.
Bài thơ "Hon đa" được lão Trì sáng tác sau khi bị xe máy đ.âm gẫy chân
Tôi quay sang hỏi vui rằng thơ hay, chữ đẹp thế mà ngày trẻ không cô gái nào theo. Ông Trì dừng đọc thơ, tự hào khoe: "Ngày trước nhiều cô theo tôi lắm đấy. Tôi lên tận Hà Nội chơi, các cô ấy còn xin theo về...". Bà Thái thấy ông cậu mình nói có chút phóng đại, tủm tỉm cười đính chính nhỏ với tôi: "Họ thấy nghèo quá, tính khí lại thất thường nên chẳng ai dám chung sống cùng cô ạ...". Ông Trì lại tiếp tục đọc những vần thơ bằng chất giọng ồm ồm, nhịp đọc đều đều như cách học sinh thuộc vẹt trả bài cô giáo.
Theo vietbao
"Dị nhân" ở Hòa Bình Sinh ra và lớn lên ở xứ Mường Động (huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình), "dị nhân" Bạch Chí Tình (SN 1956) làm được những điều mà người bình thường không dễ làm được: Tự chữa khỏi bệnh nan y khi mới 12 t.uổi, trở thành vận động viên điền kinh khi bị bệnh tim bẩm sinh, làm ca sĩ và có thể...