Đại biểu Quốc hội: “Có phải chúng ta tiêu hết tiền của 6 năm về sau không?”
Phân tích về cơ cấu tỷ lệ nợ công 65% GDP, đại biểu Nguyễn Đức Kiên đã đặt câu hỏi như vậy và nhấn mạnh yếu tố nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách.
Sáng nay 31/10, Quốc hội tiếp tục thảo luận tại Hội trường về tình hình kinh tế – xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015.
Đại biểu Nguyễn Đức Kiên thảo luận tại nghị trường Quốc hội.
Đại biểu Nguyễn Đức Kiên (Sóc Trăng) cho rằng: Sau nhiều năm chúng ta phê bình nhau về tính dự báo trung hạn trong báo cáo không đạt yêu cầu, thì 2014 là năm đầu tiên chúng ta dự báo 14 chỉ tiêu thì đạt 13 chỉ tiêu. Điều này cho thấy tính dự báo, khả năng dự báo của Chính phủ đã được nâng lên.
Cùng với đó, công tác giải phóng mặt bằng cũng đạt được những thành tích nhất định, làm cho vốn giải ngân ODA và vốn trái phiếu tăng lên. Năm 2014, Chính phủ đã phát hành lượng trái phiếu lớn để đảo nợ. Qua báo cáo của Bộ Tài chính và qua trình bày của Bộ trưởng Tài chính chiều 30/10, đảo nợ đã giúp kéo dài thời gian làm giảm áp lực trả nợ trong những năm tiếp theo. Đây là một thành công mà đại biểu không thấy trong báo cáo.
Ba năm vừa qua đã đảm bảo giá trị tiền đồng, tạo niềm tin cho nhà đầu tư và giúp ổn định thị trường tiền tệ.
Theo đại biểu Kiên, về cơ bản, kế hoạch năm 2015 đã đi vào đường ray, do đó khoảng cách điều chỉnh chính sách để đạt ra những động lực lớn sẽ khó và các chỉ tiêu tăng trưởng sẽ giữ ở tốc độ ổn định. Vì thế, ông Kiên kiến nghị, “không nên đề ra chính sách có tính đột phá hay làm hài lòng các đối tượng khác vì chúng ta đã có rất nhiều chính sách nhưng chưa đủ thời gian để chính sách đi vào cuộc sống”.
Bên cạnh đó, đại biểu Nguyễn Đức Kiên cũng kiến nghị rằng chúng ta cần phải phân tích thêm về vấn đề tăng sản xuất. Báo cáo của Chính phủ chưa phân tích rõ tại sao các báo cáo của ADB, IMF, World Bank hạ chỉ tiêu của thế giới nhưng riêng Việt Nam vẫn giữ chỉ tiêu tăng trưởng 5,8%. Vậy yếu tố nào trong cơ cấu kinh tế, điều hành kinh tế năm 2014 giúp Việt Nam vượt qua khó khăn mà cả thế giới đang khắc phục để đạt được chỉ tiêu?
Video đang HOT
Lấy ví dụ số liệu về dầu thô, ông Kiên cho hay, nếu nhìn vào số liệu sản xuất dầu thô, năm 2013 sản xuất 15,25 triệu tấn (tương đương 120.428 tỷ); năm 2014 cũng sản xuất được như vậy nhưng chỉ thu về 107.000 tỷ đồng, tức là cùng một sản lượng xuất khẩu sản xuất dầu như nhau nhưng không thu được về như thế.
Cũng theo ông Kiên, trong kế hoạch 5 năm, có 11 chỉ tiêu về tiêu tiền thì đạt nhưng tổng chỉ tiêu sản xuất để làm ra tiền không đạt. “Phải phân tích trong bối cảnh nền kinh tế đang khó như thế mà chúng ta cứ đưa ra những chỉ tiêu để tiêu tiền để đảm bảo những thức khác thì, liệu chúng ta có nuôi được nguồn thu cho ngân sách Nhà nước không? Hay chúng ta lại thấy, một trong những nguyên nhân làm nợ công tăng lên, phát hành trái phiếu tăng lên”, ông Kiên đặt câu hỏi.
Theo phân tích của ông Kiên, báo cáo của Bộ trưởng Tài chính là bắt đầu từ năm 2011 chúng ta phải phát hành trái phiếu để đảo nợ. Trong đó, tỉ lệ nợ công 65% là trong chiến lược nợ công của Thủ tướng Chính phủ quy định đến năm 2020 chứ không phải đến 2015 đạt 64% tỉ lệ. “Như vậy có phải chúng ta tiêu hết của 6 năm về sau không”?, đại biểu Kiên thắc mắc.
Thảo thuận trước Quốc hội, đại biểu Đỗ Thị Hoàng (tỉnh Quảng Ninh) cho rằng, nợ công không phải vấn đề riêng của Việt Nam hay các nước đang phát triển. Năm ngoái, Mỹ cũng đối mặt với vấn đề nợ công nghiêm trọng. Nợ công không phải lúc nào cũng dẫn đến kết quả xấu. Tuy nhiên, nợ công của chúng ta đã vượt quá 84 tỷ USD, nếu tính bình quân đầu người là trên 900 USD. Trong khi nguồn thu ngân sách chủ yếu dựa trên tài nguyên khoáng sản xuất khẩu.
Vì vậy, Chính phủ phải rà soát các yếu tố ảnh hưởng đến nợ công, kiểm soát chặt để cho chiến lược trả nợ rõ ràng. Ngoài ra, đại biểu đề xuất một số giải pháp như: quyết liệt tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, quản lý chặt chẽ hơn việc chi tiêu công ưu tiên nguồn lực cho các ngành trọng yếu, hạ tầng cơ sở; đổi mới chi tiêu công; xác định trách nhiệm không chỉ của riêng ai đối với các giải pháp thắt chặt nợ công, mỗi người phải tự tiết kiệm theo nguyên tắc “xếp gạch xây ngày mai”.
Còn theo đại biểu Nguyễn Cao Phúc (Quảng Ngãi), nợ công những năm qua đã tăng khá nhanh đi cùng nghĩa vụ trả nợ tăng nhanh, một phần nguyên nhân là do hiệu quả quản lý vốn vay không chặt chẽ. Khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, thu ngân sách sụt giảm nhưng cũng vẫn phải dùng nguồn lực để hỗ trợ doanh nghiệp và đảm bảo an sinh xã hội.
“Đối với quốc gia có xuất phát điểm thấp, hạ tầng kém như nước ta thì khi khủng hoảng, nợ công tăng nhanh là điều dễ hiểu, nhưng cần có giải pháp xử lý hiệu quả”, đại biểu nhấn mạnh.
Do đó, theo đại biểu, cần tập trung thống nhất 1 đầu mối quản lý nợ công, quy định rõ chức năng thẩm định sử dụng vốn vay, cân nhắc kỹ hiệu quả dự án trước khi đầu tư, phân kỳ dự án để giải ngân, kiên quyết loại bỏ dự án không hiệu quả, tinh giản bộ máy. Bên cạnh đó phải đẩy mạnh cổ phần hóa, tái đầu tư để trả nợ; Cần cơ cấu lại thời hạn vốn vay trong nước và kiểm soát chặt chẽ lạm phát, thâm hụt tài khoản vãng lai.
Nguyễn Hiền
Theo Dantri
Chính phủ hứa 2016 bắt đầu cắt giảm đáng kể nợ công
Lý giải nợ công tăng cao, Chính phủ "than", suy thoái vừa qua, tỷ trọng thu ngân sách thấp trong khi yêu cầu chi tăng mạnh, nguồn kinh phí kích thích kinh tế, cải cách tiền lương rất lớn nên nguồn ngân sách còn lại để bố trí cho trả nợ rất hạn hẹp.
Tại Phiên họp thường kỳ tháng 10/2014, Chính phủ đã thảo luận, thống nhất chỉ đạo tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp tăng cường quản lý nợ công, bảo đảm trong giới hạn cho phép, sử dụng vốn vay để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đi đôi với kiểm soát chặt chẽ, nâng cao hiệu quả, không để thất thoát lãng phí và bố trí nguồn trả nợ đầy đủ, đúng hạn theo quy định.
Theo Luật Quản lý nợ công, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Nghị quyết số 10/2013/QH13 của Quốc hội quy định đến năm 2015 nợ công không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 50% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP.
Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2030 quy định nợ công đến năm 2020 không quá 65% GDP, nợ Chính phủ không quá 55% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (không kể vay về cho vay lại) không quá 25% tổng thu ngân sách nhà nước.
Đến cuối năm 2013, nợ công bằng 54,2% GDP (trong đó nợ Chính phủ 42,3%, nợ Chính phủ bảo lãnh 11,1%, nợ của chính quyền địa phương 0,8%) và nợ nước ngoài của quốc gia bằng 37,3% GDP. Dự kiến cuối năm 2014 nợ công khoảng 60,3% GDP (trong đó nợ Chính phủ 46,9%, nợ Chính phủ bảo lãnh 12,6%, nợ của chính quyền địa phương 0,8%) và nợ nước ngoài của quốc gia bằng 39,9% GDP. Các chỉ tiêu này nằm trong giới hạn cho phép theo Nghị quyết của Quốc hội.
Thời gian qua, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế nước ta tăng trưởng chậm lại, tỷ trọng thu ngân sách thấp hơn cùng kỳ nhưng vẫn phải giảm thuế để hỗ trợ doanh nghiệp (tỷ lệ huy động thuế, phí vào ngân sách nhà nước giảm từ 24,8% GDP bình quân giai đoạn 2006-2010 xuống còn 21% GDP giai đoạn 2011-2015).
Trong khi đó, yêu cầu chi ngân sách tăng mạnh, phải dành nguồn kinh phí lớn cho thực hiện các chính sách kích thích kinh tế, cải cách tiền lương, bảo đảm an sinh xã hội (tỷ trọng chi cho con người trong tổng chi thường xuyên tăng từ 62,2% lên 68,2%; giai đoạn 2011-2014 đã 3 lần điều chỉnh tăng lương tối thiểu và 2 lần tăng phụ cấp công vụ; chi an sinh xã hội tăng bình quân 18%/năm, cao hơn tốc độ tăng khoảng 10% của thu, chi ngân sách).
Do đó, nguồn ngân sách nhà nước còn lại để bố trí cho trả nợ và đầu tư phát triển là rất hạn hẹp trong khi nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện đột phá chiến lược về phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là rất lớn.
Vì vậy, giai đoạn 2011-2015 phải phát hành trái phiếu Chính phủ 335 nghìn tỷ đồng, gấp hơn 2,5 lần giai đoạn 2006-2010 (giai đoạn 2011-2014 đã phát hành 250 nghìn tỷ đồng, năm 2015 theo kế hoạch phát hành thêm 85 nghìn tỷ đồng), đồng thời đã đẩy mạnh giải ngân vốn ODA, vay ưu đãi và bảo lãnh vay để đầu tư các dự án hạ tầng giao thông, thủy lợi, năng lượng, y tế, giáo dục, xây dựng nông thôn mới... theo Nghị quyết của Đảng, Quốc hội. Do đó, nợ công tăng nhanh, từ 51,7% GDP năm 2010 lên 60,3% GDP vào cuối năm 2014 và 64% GDP vào cuối năm 2015.
Mặt khác, nước ta đã trở thành nước có thu nhập trung bình nên tỷ trọng vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài với kỳ hạn dài, lãi suất thấp trong nợ công giảm dần nên chúng ta chuyển sang vay trong nước theo tinh thần Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chiến lược nợ công. Tỷ trọng vay trong nước tăng lên, chủ yếu qua phát hành trái phiếu Chính phủ ngắn hạn (năm 2012, kỳ hạn phát hành bình quân là 2,9 năm, lãi suất bình quân 10%/năm; năm 2013 là 3,4 năm và 7,96%/năm; 10 tháng đầu năm 2014 là 4,84 năm và 6,81%/năm) dẫn đến nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ tăng nhanh trong ngắn hạn.
Trong bối cảnh đó, chúng ta vẫn bảo đảm trả nợ đầy đủ, không để phát sinh nợ quá hạn. Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước năm 2014 ước khoảng 14,2% (theo quy định của Chiến lược nợ công là không quá 25%). Ngoài ra, còn sử dụng một phần vay mới để đảo nợ với kỳ hạn dài hơn, lãi suất thấp hơn, góp phần giảm áp lực trả nợ trong ngắn hạn và giảm chi phí vay vốn (năm 2014 vay đảo nợ khoảng 77 nghìn tỷ đồng). Việc đảo nợ này không làm tăng nợ công và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Nợ công là nguồn vốn quan trọng để bổ sung cho đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Trên 98% vốn vay được sử dụng trực tiếp cho các dự án hạ tầng, phần còn lại được đưa vào ngân sách nhà nước cho chi đầu tư (1,5%) và một phần chi sự nghiệp trong các dự án vay ODA theo cam kết (0,4%). Nhiều công trình quan trọng, thiết yếu về giao thông, điện, nước, thủy lợi, y tế, giáo dục... đã hoàn thành, phát huy hiệu quả và đang tiếp tục đầu tư xây dựng nhiều công trình mới, góp phần thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, qua đó sẽ tăng thu ngân sách và bảo đảm được nguồn trả nợ.
Thời gian tới, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các Bộ ngành, địa phương: (1) Tập trung quản lý chặt chẽ nợ công, nhất là các khoản vay mới (gồm vay của Chính phủ, vay được Chính phủ bảo lãnh và vay của chính quyền địa phương), bảo đảm trong giới hạn cho phép và an toàn tài chính quốc gia; tập trung đầu tư cho các công trình hạ tầng kinh tế xã hội thiết yếu theo quy hoạch. (2) Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay, bảo đảm hiệu quả và theo đúng quy định. (3) Khẩn trương cơ cấu lại nợ công theo hướng tăng nhanh tỷ trọng vay dài hạn với lãi suất thấp. (4) Kiểm soát chặt chẽ việc bảo đảm trả nợ đối với các khoản vay được Chính phủ bảo lãnh và thu đủ nợ đối với các khoản vay về cho vay lại. (5) Bố trí nguồn từ ngân sách nhà nước trong giới hạn theo quy định và sử dụng Quỹ tích lũy trả nợ để trả nợ đúng hạn. (6) Rà soát, hoàn thiện thể chế, sửa đổi bổ sung Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý nợ công, Chiến lược và Chương trình quản lý nợ công trung hạn.
Phấn đấu giảm dần các chỉ tiêu nợ công trong giai đoạn 2016 - 2020 để đến năm 2020 nợ công khoảng 60,2% GDP, nợ Chính phủ khoảng 46,6% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 46% GDP và tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước khoảng 20% (giới hạn quy định là không quá 25%). Bảo đảm an toàn tài chính quốc gia.
P.Thảo
Theo Dantri
Bộ trưởng Thăng: 'Sân bay Long Thành lỡ nhịp vì nỗi lo nợ công' Trao đổi với báo chí bên hành lang Quốc hội, Bộ trưởng Giao thông - Đinh La Thăng thừa nhận một trong những bất lợi của dự án Sân bay Long Thành là được xem xét khi mối lo về nợ công đang dâng cao. - Thay vì xem xét thông qua dự án Sân bay Long Thành tại kỳ họp này như...