‘Cứu’ doanh nghiệp, còn nhiều khoảng cách từ chính sách đến thực tế
Trong 9 tháng năm 2021, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 90,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm ngoái.
Doanh nghiệp vẫn mong các nhóm giải pháp hỗ trợ “tiền tươi thóc thật”.
Bà Phạm Thị Ngọc Thủy, Giám đốc điều hành Văn phòng Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ. Ảnh: nhân vật cung cấp.
Phóng viên báo Tin tức đã trao đổi với bà Phạm Thị Ngọc Thủy, Giám đốc điều hành Văn phòng Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) thuộc Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ xung quanh vấn đề này.
Việc triển khai các chính sách, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp thời gian qua đã phần nào giúp doanh nghiệp có thể duy trì, ổn định sản xuất. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, tồn tại trong khâu thực thi các chính sách, đặc biệt, các doanh nghiệp kiến nghị: Nhà nước cần có sớm Hướng dẫn áp dụng các điều kiện tổ chức sản xuất an toàn trong tình hình mới; kế hoạch mở cửa của các địa phương để doanh nghiệp chủ động phương án sản xuất kinh doanh. Quan điểm của bà về vấn đề này?
Trong gần 2 năm kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát, cách thiết kế chính sách cho doanh nghiệp luôn đặt họ vào vai hoặc là được, hoặc là bị, hoặc là phải, tức là tính chủ động không cao. Trong khi bản thân doanh nghiệp không chỉ là đối tượng thụ hưởng chính sách mà còn là chủ thể chính trong bài toán phục hồi kinh tế, của việc thực hiện mục tiêu kép.
Khó khăn nhất của doanh nghiệp hiện nay chính là sức khỏe tài chính. Hoạt động ngày càng khó khăn, dòng tiền vào thì ít và chi ra thì liên tục nên mọi sự hỗ trợ dù lớn, dù nhỏ đều rất tốt. Những chính sách tài khóa, tiền tệ đều là “phao cứu sinh” của doanh nghiệp. Tuy nhiên giữa kỳ vọng với thực tiễn áp dụng chính sách vẫn còn những khoảng cách nhất định.
Trong bối cảnh ngân sách Nhà nước (NSNN) còn nhiều áp lực, những đề nghị giảm thuế, phí và những khoản phải nộp không thể nào có những quyết sách quá mạnh như cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng, trong khi chính sách lại áp dụng cho số đông. Tức là chưa có chính sách đi vào nhóm chuyên sâu, đặc thù mà áp dụng cho tất cả đối tượng chịu sự ảnh hưởng. Do vậy, nguồn lực của Nhà nước thì vừa phải mà lại san đều nên mỗi doanh nghiệp nhận được hỗ trợ từ phía Nhà nước cũng hạn chế.
Mức độ hỗ trợ còn ít vì đối với chính sách “giảm thu”, doanh nghiệp nào còn doanh thu mới được thụ hưởng, trong khi doanh thu của nhiều doanh nghiệp đã giảm mạnh, thâm chí bằng không, dẫn đến tỷ lệ thụ hưởng chính sách hạn chế.
Đối với chính sách liên quan đến ngân hàng, dù thời gian qua đã có hướng dẫn, tuy nhiên doanh nghiệp cũng phản hồi quá trình thực hiện ở phía ngân hàng còn chưa đồng nhất. Thực tiễn tiếp cận chính sách từ khối ngân hàng còn khoảng cách tương đối lớn với những quyết sách.
Bộ máy thực thi chính sách chưa tốt như mong muốn, chất lượng thực thi không đồng đều nên doanh nghiệp mong muốn việc thiết kế chính sách phải làm sao để doanh nghiệp thực hiện được. Các chính sách như giảm tiền điện, giảm thuế… thường có các điều kiện, tiêu chí rõ ràng, do đó doanh nghiệp rất dễ được thụ hưởng, tạo hiệu ứng tốt trong thực tiễn.
Theo bà, để gia tăng hiệu quả, giúp chính sách đi vào cuộc sống, cứu doanh nghiệp trong bối cảnh dại dịch nhiều khả năng còn kéo dài, cơ quan quản lý Nhà nước từng lĩnh vực cần có những giải pháp cải thiện ra sao, đặc biệt đơn giản hóa các thủ tục cứu trợ?
Video đang HOT
Đối với chính sách thuế, tín dụng, vấn đề đầu tiên doanh nghiệp gặp phải là câu chuyện hiểu chính sách. Các quy định hiện nay không dễ để người dân và doanh nghiệp đọc là hiểu được ngay.
Tiếp theo là bài toán tiếp cận. Trong giai đoạn vừa qua có rất nhiều chính sách đã được triển khai nhưng đến khâu chuẩn bị hồ sơ, giấy tờ, trao đổi trực tiếp với cán bộ công chức các cấp thì lại phát sinh những bất cập, vướng mắc.
Những ngày qua Ban IV đang thực hiện nhiệm vụ được Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng giao đó là khảo sát, đánh giá tình hình thực hiện các quy trình thủ tục trong bối cảnh đại dịch COVID-19. Qua tiếp nhận ban đầu, thấy có không ít “than phiền” liên quan đến việc hồ sơ thủ tục còn phức tạp, trong đó có cả thủ tục về thuế, phí, lệ phí, thủ tục trong khối ngân hàng.
Thực tế năm 2020 đã chứng kiến nhiều phản hồi về yêu cầu, điều kiện để tiếp cận chính sách còn quá phức tạp dẫn tới kết quả thụ hưởng cơ chế chính sách chưa cao. Đến năm 2021 dù có nhiều cải thiện, nhưng vẫn còn bất cập về cách truyền đạt chính sách, hướng dẫn người dân, doanh nghiệp chưa thực sự nhiệt tình. Những phản hồi mà Ban IV nhận được về cách cán bộ công chức, người có trách nhiệm tương tác với người dân, doanh nghiệp còn nhiều vấn đề chúng ta phải suy ngẫm để cải thiện trong thời gian tới.
Doanh nghệp băn khoăn về thời gian và công sức bỏ ra so với khoản tiền nhận được hỗ trợ. Có những quy trình thủ tục làm rất mất công, mất sức, thậm chí chứng minh hàng tập hồ sơ nhưng phần hỗ trợ nhận được không tương xứng nên cuối cùng doanh nghiệp “bỏ cuộc”
Vậy theo bà, nguyện vọng hiện nay của doanh nghiệp là được cơ quan quản lý Nhà nước đặt vào trong bài toán phục hồi kinh tế cùng quản lý về tính an toàn, rủi ro trong bối cảnh dịch, thay vì chỉ là đối tượng chịu sự quản lý, hoặc được nhận sự hỗ trợ của Nhà nước, được giải cứu?
Tài chính, đồng tiền như là máu của doanh nghiệp, tất cả mọi sự hỗ trợ mặc dù rất đáng quý nhưng để nói có thể vực dậy được hay chưa thì chưa đủ, vì nguồn lực chung đều hạn hẹp. Vì vậy nguyện vọng lớn nhất của doanh nghiệp lúc này là được hoạt động.
Như đã nói, cách thiết kế chính sách cho doanh nghiệp hiện nay chưa đặt doanh nghiệp vào thế có thể chủ động. Cho nên nguyện vọng thứ hai của doanh nghiệp chính là tính chủ động.
Bên cạnh đó hoạt động đối thoại công tư cần được đẩy mạnh. Lâu nay đây là hoạt động chưa được đẩy mạnh, thực chất. Hiện nay chúng ta chủ yếu nghe doanh nghiệp kêu, tức là khó là kêu mà kêu với các cơ quan, tổ công tác. Trong khi đó tại sao chính các cơ quan xây dựng soạn thảo chính sách không chủ động đối thoại, chủ động đánh giá cùng doanh nghiệp xem hiệu ứng như thế nào, hiệu quả ra sao, có nội dung gì cần điều chỉnh hay không? Những cơ chế đó vô cùng cần thiết trong giai đoạn tới.
Các chương trình hỗ trợ cần có kênh đánh giá độc lập về hiệu quả triển khai. Nhiều cơ quan quản lý chỉ ban hành chính sách là xong nhiệm vụ. Việc triển khai thực tế, mức độ thụ hưởng còn thấp thì dù chính sách nêu ra tốt đẹp đến đâu cũng không còn nhiều ý nghĩa. Điều đó là mong mỏi của cộng đồng doanh nghiệp, thể hiện sự tôn trọng tới cộng đồng doanh nghiệp. Đồng thời cho phép doanh nghiệp đóng góp tâm – trí – lực đồng hành với cơ quan quản lý Nhà nước. Vì giải một bài toán khó khăn trong bối cảnh đại dịch thì không có một cơ quan nào có thể làm thay tất cả.
Để giúp doanh nghiệp thích ứng tốt hơn trong cuộc chiến chống COVID-19 cũng như nhanh chóng phục hồi sản xuất, kinh doanh, Ban IV đã có Báo cáo kiến nghị Thủ tướng Chính phủ những nội dung chính ra sao, thưa bà?
Giải pháp không tốn nhiều nguồn lực mà doanh nghiệp đều được thụ hưởng là phải tiếp tục tháo gỡ khó khăn của các quy định pháp luật còn gây phiên hà, chồng lấn. Việc cải thiện môi trường kinh doanh cần tiếp tục được ưu tiên đẩy mạnh hơn nữa để tạo hiệu ứng lớn trên thực tế, tạo nên nhiều lực đẩy, động lực phát triển kinh tế trong thời gian tới.
Ban IV đã có những kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét tháo gỡ khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp như: Thứ nhất, Chính phủ và các bộ ngành địa phương cần thay đổi mạnh mẽ nhận thức cho phép doanh nghiệp, cụm doanh nghiệp trở thành chủ thể tham gia vào các hoạt động quản lý sự an toàn trong bối cảnh dịch, thay vì chỉ là đối tượng chịu sự quản lý như trước đây.
Thứ hai, trong mọi bối cảnh của dịch bệnh, các cấp chính quyền và người dân, doanh nghiệp cần có cùng tư duy phải duy trì được hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ ba, yếu tố hợp tác công – tư là điều kiện then chốt để tập hợp sức mạnh, nguồn lực các bên, vì vậy trong mọi khâu phải có vai trò của phía tư nhân một cách chủ động.
Thứ tư, xây chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phải có cơ chế giám sát và phải công khai, minh bạch cơ chế này để người dân, doanh nghiệp có thể biết và phản hồi thông tin từ thực tiễn.
Xin trân trọng cảm ơn Bà!
Gói vay cấp bù lãi suất cứu doanh nghiệp, thực hiện sao cho hiệu quả?
Ông Nguyễn Tuấn Anh - Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) cho biết: Các ngân hàng đang lên kế hoạch gói cấp bù lãi suất 3.000 tỷ đồng, quy mô tương đương hơn 100.000 tỷ đồng với lãi suất 3 - 4%/năm để tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay vốn trong bối cảnh dòng tiền cạn kiệt vì dịch bệnh.
Sáng kiến chính sách cấp bù lãi suất không chỉ tháo gỡ khó khăn về dòng tiền cho doanh nghiệp mà còn kích hoạt nguồn vốn trong xã hội. Ảnh: TTXVN
"Từ những kinh nghiệm trước đây, trong thời gian tới khi xây dựng cơ chế chính sách, NHNN sẽ tính toán đến các mục tiêu nhưng quan trọng nhất vẫn là ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát", ông Nguyễn Tuấn Anh chia sẻ.
Thận trọng để tránh các hệ luỵ
Quốc hội và Chính phủ đã áp dụng nhiều chính sách cứu trợ doanh nghiệp nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn than không đủ, chưa tiếp cận được nguồn vốn rẻ. Giới chuyên gia kinh tế kỳ vọng: Gói "cấp cứu" bù lãi suất lần này phải tạo được dấu ấn riêng, tăng thêm quy mô hơn nữa với các thủ tục triển khai thuận lợi nhanh chóng để cứu doanh nghiệp, tạo sức bật cho nền kinh tế phục hồi rõ rệt.
Đề cập tới việc thị trường sắp có hơn 100.000 tỷ đồng tín dụng ưu đãi được "bơm" ra nền kinh tế, TS Lê Xuân Nghĩa - thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia cho rằng: Việt Nam cần phải thiết kế gói hỗ trợ với quy chế đặc biệt để không phải sửa Luật Tổ chức tín dụng nhưng thận trọng để tránh những hậu quả ảnh hưởng tới nền kinh tế, phải có giới hạn các "chốt" để kiểm soát lạm phát, giữ được ổn định vĩ mô.
Theo TS Lê Xuân Nghĩa, năm 2009 - trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, Việt Nam từng có gói hỗ trợ lãi suất tương tự (1 tỷ USD) với lãi suất hỗ trợ 4%/năm để hỗ trợ cho vay các dự án và chương trình đầu tư. "Tuy nhiên, những 'chốt' về vĩ mô và vi mô không lường trước nên hệ lụy của gói hỗ trợ đã để lại tương đối lớn. Lạm phát tăng mạnh, làm xói mòn tăng trưởng kinh tế", ông Lê Xuân Nghĩa cho biết.
Trong khi đó, mức tăng trưởng GDP không có dấu ấn nhiều. Nếu như năm 2009, GDP Việt Nam là 5,3%/năm, năm 2010 nhích lên 6,78%/năm thì năm 2011 lại giảm xuống 5,89%. Tăng trưởng tín dụng được nới lỏng quá mức. Năm 2009, tăng trưởng tín dụng tăng "phi mã" lên tới 37,3%; năm 2010, tăng trưởng tín dụng là 27%. Bên cạnh đó, chỉ số giá tiêu dùng, lạm phát năm 2009 và 2010 chỉ ở mức 6,88%/năm; 9,19%/năm nhưng sang năm 2011 lại "phi mã" lên tới 18,58%/năm.
Để tránh những hậu quả về vĩ mô và vi mô không đáng có, chuyên gia kinh tế Lê Xuân Nghĩa lưu ý: "Cơ quan quản lý phải giới hạn các "chốt", đó là: Giữ mức tăng trưởng tín dụng hợp lý, không đẩy lên quá cao; kiềm chế tốc độ lạm phát; duy trì mức tăng hợp lý của tỷ giá hối đoái; phải chấp nhận nợ xấu nhưng ở mức độ nào, làm thế nào để ổn định thanh khoản hệ thống ngân hàng?".
Một số chuyên gia "hiến kế": Việt Nam có thể dùng chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương tạo hiệu ứng giảm mặt bằng lãi suất chung. Ví dụ, ngân hàng giảm lãi suất 1%/năm, cộng với gói kích thích lãi suất có lãi suất khoảng 2 - 3%/năm để tạo hiệu ứng giảm lãi suất cho các doanh nghiệp. Phía Bộ Tài chính có thể phát hành trái phiếu hoặc vay ngân hàng Trung ương.
Theo Tiến sỹ Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, năm 2009, Việt Nam sử dụng 1 tỷ USD, tương đương 17.000 tỷ đồng để cấp bù lãi suất cho doanh nghiệp. Nguồn tiền lấy từ Quỹ dự trữ ngoại hối nhưng đến nay, ngân hàng vẫn chưa được quyết toán hết. Đó là sự vướng mắc. "Mặc dù chính sách cấp bù lãi suất có hiệu ứng nhất định nhưng hậu quả để lại không hề nhỏ. Thanh khoản hệ thống ngân hàng gặp vấn đề lớn, nợ xấu liên tục tăng cao. Chính phủ phải thành lập công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng để giải quyết hệ quả. Gói hỗ trợ lãi suất lần này cần phải tính toán cẩn trọng trên mọi phương diện", ông Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh.
Mong bơm vốn khẩn
Rất nhiều doanh nghiệp đang hoạt động "thoi thóp", thậm chí phá sản khi đại dịch kéo dài. Vì vậy nhiều ý kiến cho rằng: Nếu doanh nghiệp được tiếp cận nguồn tín dụng lãi suất thấp sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí, tái đầu tư sản xuất kinh doanh.
"Ngành Ngân hàng cần tính toán để có thể cho được nhiều doanh nghiệp vay vốn ưu đãi; ngân hàng cần mở rộng hơn nữa đối tượng vay từ đó, mới phát huy được hết ý nghĩa của việc NSNN cấp bù lãi suất cho doanh nghiệp thông qua tổ chức trung gian là ngân hàng", ông Tô Hoài Nam - Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (Vinasme) kiến nghị. Theo quy định của ngân hàng, doanh nghiệp được vay vốn với tài sản đảm bảo là hình thức tín chấp nhưng hiện rất ít ngân hàng chưa mạnh dạn cho vay. Tỷ lệ doanh nghiệp được vay tín chấp rất thấp, đặc biệt các khoản vay mới.
"Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, dòng tiền như oxy đối với doanh nghiệp nên gói hỗ trợ cần được mở rộng quy mô và ban hành sớm", ông Nguyễn Quốc Kỳ, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Du lịch và Tiếp thị Giao thông Vận tải Việt Nam (Vietravel) mong mỏi.
Hiện, Vietravel có 1.700 nhân viên nhưng có những thời điểm tại công ty chỉ có từ 15 - 20 người làm việc để duy trì các hoạt động hành chính thông thường, bảo vệ cơ sở vật chất. Nếu như trước dịch, doanh thu của Vietravel đạt khoảng 7.000 - 8.000 tỷ đồng/năm, nay doanh thu chỉ đạt chưa tới 10%. Không chỉ Vietravel, tất cả các công ty du lịch, lữ hành đều bị ảnh hưởng rất nặng nề. Theo ông Nguyễn Quốc Kỳ, tỷ lệ nợ công trên GDP năm 2021 là 56%, thặng dư ngân sách Nhà nước 83.000 tỷ đồng, lạm phát khoảng 3,1%, dự trữ ngoại hối trên 3 con số. Điều này cho thấy Chính phủ có nguồn lực để có thể tung ra các gói hỗ trợ doanh nghiệp.
Tính toán của các doanh nghiệp hàng không cho thấy: Trung bình chi phí bình quân ngày trong 6 tháng đầu năm nay của Vietnam Airlines đã giảm còn bằng 1/4; Vietjet giảm còn bằng 1/5 lần so với chi phí bình quân năm 2019 nhưng số nợ và tình trạng thiếu hụt dòng tiền của các hãng đã lên tới con số "khổng lồ". Số nợ ngắn hạn và nợ đến hạn phải trả của Vietnam Airlines, Vietjet và Bamboo hiện lên tới trên 50.000 tỷ đồng. Dòng tiền hoạt động của các hãng bị thiếu hụt hàng chục ngàn tỷ đồng.
Trước tình hình này, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp hàng không Việt Nam, Tiến sỹ Bùi Doãn Nề kiến nghị: Chính phủ cần tiếp tục hỗ trợ ngành Hàng không một khoản đầu tư để nuôi dưỡng nguồn thu trung và dài hạn; hỗ trợ để doanh nghiệp phục hồi, bảo toàn được nguồn vốn và hỗ trợ việc thanh khoản. Về chính sách nguồn vốn, nên xem xét cho các hãng hàng không khác được hưởng lãi suất 0% như đã thực hiện với Vietnam Airlines.
Tuy nhiên cũng có chuyên gia kinh tế lo ngại: Chính sách bù tiền để giảm lãi suất thấp sẽ làm méo thị trường tài chính. Để trợ giúp doanh nghiệp trong bối cảnh này cần tạo điều kiện thông thương hàng hóa, nhanh chóng đầu tư vào các hạ tầng giao thông để phục vụ sản xuất. Có nhiều cách để hỗ trợ doanh nghiệp và những chính sách đó nên hướng theo tiêu chuẩn chung của thị trường không nên làm méo thị trường vốn trong vấn đề lãi suất.
Trước đó, trong phiên họp thứ 3 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ yêu cầu Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định ngay trong kỳ họp tháng 10/2021 các giải pháp về cấp bù lãi suất cho ngân hàng để giảm lãi vay nhằm tháo gỡ khó khăn về dòng tiền cho doanh nghiệp và giải pháp hỗ trợ dựa trên chi phí lao động, trên quan điểm hỗ trợ có chọn lọc, đúng và trúng mục tiêu, đối tượng tránh việc hỗ trợ tràn lan, dàn trải.
Miễn, giảm thuế cho doanh nghiệp, người dân: Sự hỗ trợ cần thiết Chính phủ đã có Tờ trình số 289/TTr-CP (ngày 13-8-2021) trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành một số giải pháp về miễn, giảm thuế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động bởi dịch Covid-19, trong đó có 3 nhóm chính sách lần đầu được đề xuất....