Cuộc sống mới của cha con người rừng
Một năm trước, Sùng A Páo ( dân tộc Mông) và hai con sống như người rừng trong một hang đá ở Cao Bằng.
Sau khi được đón về Hà Nội, giờ A Páo trở thành “công nhân” trồng hoa, lương tháng 3 triệu đồng, còn con trai đã được đi học…
Những nhân vật đặc biệt
Trung tâm Dạy nghề nhân đạo của ông Trần Duyên Hải nằm trong con ngõ nhỏ Linh Quang, thuộc phường Văn Chương, quận Đống Đa, Hà Nội. Nơi đây từng cưu mang hàng chục nghìn số phận bất hạnh. Không chỉ giúp cho những người cơ nhỡ có nơi ăn chôn ở, Trung tâm còn chăm lo cả việc dạy nghề, học văn hóa và giới thiệu việc làm cho họ. Ba bố con “người rừng” Sùng A Páo có lẽ là nhân vật đặc biệt nhất tại Trung tâm, bởi chỉ một năm trở về trước, họ còn sống trong một hang đá như thời nguyên thủy trên vùng núi cao của xã Mông Ân, huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng.
A Páo người già nua, gầy đét, da đen như thanh củi cháy xém. Hỏi Páo, Páo bảo chẳng nhớ sinh năm nào, sống ở cái hang đá ấy từ bao giờ. Páo chỉ biết mình có tới 3 đời vợ. Người vợ cả lấy nhau được một năm thì ăn lá ngón tự tử. Người vợ thứ 2, sinh cho ông 8 người con rồi bỏ đi theo người đàn ông khác. Páo lấy thêm người vợ thứ 3 kém rất nhiều tuổi, bị thiểu năng trí tuệ. Hai người có với nhau ba mặt con là Sùng A Lự (SN 2003), Sùng A Đại (SN 2008) và một đứa… đã chết vì đói ăn, bệnh tật.
Ba cha con ông Páo ở Trung tâm
Nhìn ánh mắt trong veo của A Lự, tôi hiểu rằng Trung tâm của ông Hải đã phải nỗ lực rất nhiều mới có thể giúp 3 cha con A Lự có một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Được về Trung tâm là điều may mắn lớn của bố con A Lự. Đôi vai nhỏ bé của A Lự đã thoát khỏi những bó củi khổng lồ, bố con không còn phải chịu những cơn đói triền miên và những bữa mì tôm nấu ớt ở hang đá Mông Ân. Và ở đây họ đã biết thế nào là Tết.
Gần hai năm trước, cô vợ trẻ của ông bị lừa bán sang Trung Quốc, kể từ đó, Páo sống đơn chiếc với hai đứa con trong một căn nhà rách nát. Vợ không còn, con đông, Páo không phải là người ưa lao động, lại ham rượu chè nên căn nhà rách nát cũng bị Páo đổi lấy… hai chai rượu. Páo dắt hai con lên hang đá Mông Ân ở. “Để sống được, tôi phải lặn lội đi kiếm nắm lá hay quả rừng, hôm nào gặp may thì có thêm con cá bắt được dưới suối. Không có gạo, cả nhà ăn rau rừng, cá suối… Nhiều khi mưa rừng lớn, không kiếm được gì ăn thì chỉ biết chịu đói, lấy nước suối thay thức ăn” – A Páo kể.
Nhắc tới “căn nhà” của A Páo, ông Hải nhớ lại: “Phải đi bộ mất một tiếng rưỡi mới lên tới hang đá- nơi bố con Páo ở. Trong hang không thóc gạo, thực phẩm, cái xoong vương lại vài sợi mì mốc meo. Ba bố con gầy nhẳng, đầu tóc bù xù như người rừng. Thằng lớn còn mặc quần áo chứ thằng út thì không”.
Ở hang núi Mông Ân, hàng ngày Páo đi đốn cây rừng, dùng nêm gỗ bóc cây làm củi như cách người nguyên thủy vẫn làm. Sùng A Lự mới vài tuổi sớm trở thành trụ cột của cả nhà. Mỗi ngày, A Lự còng lưng tha bó củi cao hơn nó đến thị trấn bán được 10 nghìn rồi đổi lấy vài gói mỳ. Về nhà, ba bố con ăn mỳ chung với ớt.
“Thằng Lự vác bó củi vật vã trên những ngọn núi tai mèo nhọn hoắt, chẳng khác một con kiến tha miếng mồi. Vậy mà hôm nào nó không đổi được mỳ là bị A Páo đánh, thậm chí dìm xuống suối. Có lẽ vì thiếu dinh dưỡng mà tóc A Lự và A Đại cứ đỏ hoe. A Páo và cậu bé A Đại chỉ biết nói tiếng Mông và bập bõm vài ba từ tiếng Kinh. Hai bố con chẳng đi đâu ngoài cái hang đá rộng không quá 2m ấy. A Lự thì quen xuống thị trấn đổi củi nên nói tiếng Kinh sõi hơn. Ba bố con gầy gò, xanh xao, không giấy tờ tùy thân, không hộ khẩu” – ông Hải nói.
Cô giáo chủ nhiệm Nguyễn Thị Thanh Tâm rất ấn tượng với học trò A Lự từ ngày đầu tiên em tới lớp. Cô Tâm chia sẻ: “Ban đầu khi nghe nói lớp sẽ có một em người rừng, tôi cũng rất ái ngại, lo không biết dạy ra sao. Lự mới vào lớp học được hơn 2 tháng nhưng em tiếp thu rất nhanh, đã theo kịp và hòa đồng được với các bạn. Lự chăm lắm, hôm nào đến phiên trực nhật là em đến rất sớm, cái giẻ lau bảng của cô lúc nào cũng sạch sẽ”. Trường tiểu học Văn Chương đã miễn phí cả tiền học phí và tiền ăn uống bán trú để hỗ trợ cậu học trò “người rừng” Sùng A Lự.
Video đang HOT
Lạc giữa đô thành
Thời gian đầu, để “đào tạo” được “người rừng”, các cán bộ của Trung tâm rất vất vả. Về Hà Nội hơn một tháng, ba bố con Páo vẫn ngơ ngác. Thấy cái tivi đang nói, ông cứ nhìn chằm chằm không hiểu “sao lại có người ở trong đó”, rồi tròn mắt trước cái điện thoại khi có tiếng chuông gọi. Quen cách sống ở rừng nên Páo tiếp thu rất kém. Páo không biết giặt giũ quần áo. Cả việc đánh răng Páo cũng lóng ngóng như đứa trẻ…
Nói về ngày đưa “người rừng” xuống núi, ông Hải kể: “Đó là chuyến đi nhớ đời. Ôtô chạy ròng rã từ Hà Nội, vượt đèo dốc vào xã Mông Ân, rồi từ xã phải đi bộ 4 tiếng đồng mới vào tới nơi họ ở. Thấy người lạ, bố con Páo bỏ chạy. Ông Páo nhất quyết không chịu về xuôi. Tôi phải nhờ một người Mông làm việc ở xã thuyết phục mãi. Tưởng mọi chuyện đã xong, khi ra ôtô, A Đại lại khóc không chịu lên vì: “Con trâu này to quá”. Quãng đường từ hang về Hà Nội mấy trăm cây số, ba bố con A Páo bị say xe kêu loạn lên. Phải để cái mũ cối cho họ nôn ra, cứ đầy lại đổ… Hành trình từ hang núi về trung tâm mất 6 ngày”.
Hà Nội với bố con Páo như một thiên đường, mọi thứ đều xa lạ nên bố con Páo rất tò mò. Páo thử đi ra phố, nào ngờ lạc mất. May mắn, Trung tâm cho người đi tìm thấy. Phòng bất trắc, ông Hải đã để trong túi áo ngực của Páo cái địa chỉ của ông và trung tâm, mặt sau có in sơ đồ chỉ dẫn đường để lỡ có bị lạc nữa thì Páo cũng tìm hoặc nhờ người đưa về.
Được vài tuần, tỏ ra đã thông thạo đường xá quanh Trung tâm, Páo xin đi đổ rác “cho các ngươi”. Nhưng Páo đi đổ rác rồi lại quên mất đường về. Mấy tiếng không thấy Páo, sốt ruột quá, ông Hải lên phòng Páo kiểm tra thì thấy cái áo có hai tờ địa chỉ vứt dưới sàn nhà. Cả Trung tâm lại nháo nhác huy động người đi tìm. Ông Hải cho người in ảnh chân dung ông Páo đi dán khắp nơi. Một ngày, rồi một đêm, rồi một ngày nữa vẫn bặt vô âm tín. Tình cờ, một học viên đi xe buýt chợt phát hiện Páo lượn qua đầu xe ở địa phận quận Thanh Xuân, dọc đường Nguyễn Trãi. Cậu này nhảy xuống kéo Páo lại, Páo bỏ chạy rồi ú ớ kêu cứu. Cậu học viên phải báo tin cho ông Hải đến. Suốt hai ngày ròng rã đi tìm, khó khăn lắm Trung tâm mới đưa được Páo về!
Lần đầu ăn Tết ở Thủ đô
Từ ngày ba bố con Páo về Trung tâm đến nay đã gần một năm. Họ được đưa đi cắt tóc, sắm sửa quần áo. “Páo giờ đã giao tiếp với người Kinh gần như bình thường. Biết chào hỏi, biết dùng đũa để ăn, biết đánh răng, chải đầu, giặt quần áo… Hai đứa trẻ được cho đi học. Giờ đây, chẳng còn ai nhận ra họ là người rừng nữa” – ông Hải vui mừng kể.
A Lự rất vui khi lần đầu tiên nhận được quà từ “bà già” Noel
Năm tháng đầu ở Trung tâm, bố con Páo học giao tiếp với mọi người. Rồi được các tình nguyện viên hướng dẫn làm những việc đơn giản như nhặt rau, đun nước, dọn cơm… Ông Hải đã tìm cho A Páo công việc chăm sóc vườn tược tại một doanh nghiệp ở Gia Lâm. Nhưng ban đầu Páo rất lười, không chịu lao động mà chỉ ăn, lắm lúc Páo ngồi ăn một mạch hết hai nải chuối to với một rổ cam quýt. Làm được 3 ngày thì A Páo bỏ vì “không quen làm”. Ông Hải đã mất rất nhiều thời gian đi lại từ Khâm Thiên sang Gia Lâm để dỗ dành A Páo. Dần dần Páo đã có những thay đổi, biết làm cỏ, tưới cây, chăm sóc cây cảnh, biết một ngày phải làm việc mấy tiếng.
Thấy Páo đã học việc thành thạo, Trung tâm xin cho ông ra Quảng Ninh để trồng hoa và sinh vật cảnh, lương mỗi tháng 3 triệu đồng, cộng với thưởng và lương tháng thứ 13 là được 40 triệu/năm. Số tiền này Trung tâm sẽ giữ để vài năm nữa cho ba bố con Páo hồi hương, ổn định nơi ăn chốn ở. “Hướng của Trung tâm là giúp Páo phải có nghề, hai cháu được đi học, khi đó chúng tôi mới bàn giao cho địa phương”- ông Hải chia sẻ.
Những lúc rảnh, ông Hải lại hướng dẫn A Lự học bài
A Páo đã rất vui với cuộc sống hiện tại. Mới đây vì nhớ cái hang của mình, Páo nằng nặc xin về thăm. Nhưng trước khi đi, Páo đã hứa sẽ về ăn Tết ở Thủ đô. Còn A Lự sau 6 tháng học chữ ở Trung tâm đã được đi học ở Trường Tiểu học Văn Chương. A Đại thì được vào nhà trẻ.
Chúng tôi tìm đến lớp 1A6, Trường Tiểu học Văn Chương – nơi Lự đang theo học. Nhìn Lự vui đùa cùng các bạn trong lớp, chúng tôi thấy mắt cay cay. Em đã thực sự hòa nhập với cuộc sống nơi đây. So với ngày mới về Trung tâm, Lự trắng trẻo, mập hơn nhiều, nụ cười đã bừng sáng trên gương mặt. A Lự vui vẻ khoe: “Ở đây thích lắm, được ăn no lại còn được đi học, được gặp nhiều bạn nữa. Em cũng đã biết đọc, biết viết chữ rồi nhé”. Lật từng trang vở của Lự, nét chữ tròn trịa trên các trang vở sáng đẹp, ít ai nghĩ rằng đó là chữ của cậu bé “người rừng”.
Theo 24h
Gái sơn cước 16 tuổi đã 2 mặt con
"Bố bảo học không ra được gạo, lấy chồng rồi thích làm gì cũng được. Em bảo chưa có ai lấy thì hôm sau bố dẫn về một chàng trai hơn 1 tuổi bảo cưới", Hật Thị Dua lý giải việc nghỉ học lấy chồng từ tuổi 13.
Huyện miền núi Mường Lát là nơi xa xôi nhất của tỉnh Thanh Hóa. Ở các xã như Mường Lý, Mường Chanh, Pù Nhi... khi đường sá còn khó khăn, điện chưa về được tới bản thì nơi đây vẫn đang phổ biến nạn tảo hôn cùng với những câu chuyện cười ra nước mắt.
Từ trung tâm huyện Mường Lát, khách phải đi hơn 30 km cheo leo trên những cung đường đất. Chỉ ít hạt mưa phùn đường đã trơn trượt, lầy lội, xe máy phải lắp bánh xích mới có thể bò lên được.
Tại đỉnh dốc Xa Lung, bản Xa Lung (xã Mường Lý), Hật Thị Dua ngồi bên ngôi nhà sàn bế đứa con nhỏ với vẻ mặt nặng trĩu lo âu. Dua tròn 15 tuổi nhưng đã lấy chồng từ năm 13. Đứa con gái của Dua là Thầu Thị Dủa được hơn 1 tuổi. Ngày nào Dua cũng cho nó bú, ăn nhưng không hề có một tiếng ru hời.
Dua 16 tuổi nhưng đã có con một tuổi. Ảnh: Nông nghiệp Việt Nam.
Nghe khách hỏi "còn đi học không, sao lại lấy chồng sớm vậy?", Dua bảo trước khi lấy chồng đã đi học ở Trường THCS Mường Lý. Ngày đó, Dua vô tư như những học sinh người Mông khác. Sau buổi nghỉ cuối tuần, em về nhà lấy thêm rau, gạo chuẩn bị cho tuần học mới thì bố mẹ không cho đến trường nữa.
"Bố bảo học không ra được gạo, lấy chồng rồi thích làm gì cũng được. Em bảo chưa có ai lấy thì ngay hôm sau bố dẫn về một chàng trai hơn 1 tuổi bảo cưới", Dua tâm sự.
Ở bán Ún, Lương Thị Tọa mới 16 tuổi nhưng có đến 2 đứa con. Năm 2009, trong một lần đi nương, Tọa bị đám thanh niên quây lại bắt về làm vợ. Khi về tới nhà người con trai bắt mình, đang chuẩn bị làm lễ cúng ma thì Tọa bỏ chạy ra ngoài nên lần bắt vợ đó không thành. Do nhà hoàn cảnh khó khăn, lại đông anh em nên hầu hết anh em Tọa được bố mẹ "cho" lấy vợ gả chồng sớm.
Theo phong tục của người Mông, con trai, con gái chỉ ở độ tuổi 13-15 đã được dựng vợ gả chồng. Thời điểm sau mùa màng và tháng giáp Tết được coi là mùa cưới. Người Mông khi nào cũng ăn Tết trước một tháng so với Tết cổ truyền của người Kinh. Ngày Tết Mông có nhiều hoạt động như chơi cù, chơi khẳng, các lễ hội khác... và không thể thiếu được tục bắt vợ. Chính vì vậy mà năm nào xã Mường Lý cũng có hàng chục đôi cưới xin theo hình thức tảo hôn.
Ông Đinh Công Đại, Chủ tịch UBND xã Mường Lý, cho biết theo phong tục của người dân tộc, bắt vợ và ngủ thăm ở đây vẫn còn rất phổ biến, hầu hết đám cưới đều dưới 18 tuổi. Theo thống kê của ông Đại, hàng năm xã Mường Lý chiếm tới 30-40% các đôi tảo hôn chủ yếu tập trung ở các bản người Mông như: bản Muống 1, Xì Lồ, bản Ún, Trung Thắng, Sài Khao.
Ở trường THCS Mường Lý năm nào cũng có vài học sinh bỏ học về lấy vợ, lấy chồng. Thầy Mai Văn Dũng, Hiệu trưởng Trường THCS Mường Lý, cho biết nhà trường có 308 học sinh từ lớp 6 đến lớp 9. Khoảng 5 năm trở lại đây có 30-40 trường hợp nghỉ học giữa chừng, trong số này chiếm tới 80% là lấy vợ lấy chồng.
Vàng Pó Ly 15 tuổi đã lấy vợ được một năm. Ảnh: Nông nghiệp Việt Nam.
Điển hình như năm học 2012-2013, trường có 4 học sinh bỏ học về lấy vợ, lấy chồng là các em Vàng Pó Ly, bản Sài Khao; Thào Thị Giống, bản Muống 1; Thào Thị Xoa, bản Muống 1; Hơ A Sù, bản Muống 2. Nhiều em vừa đi học, vừa lấy vợ. Như em Vàng Pó Ly, mới 15 tuổi, học sinh lớp 9B, đã lấy vợ được một năm. Vợ của Ly là Sùng Thị Dê (14 tuổi) không còn theo học nữa nên hằng ngày Dê lên nương làm rẫy cùng gia đình, còn Ly vẫn miệt mài tìm chữ.
Cũng như Ly, Thào Thị Xoa, học sinh lớp 8A, bản Muống 1 mới lấy chồng được gần một năm trong đợt Tết bắt vợ của người Mông năm ngoái. Sau tết, Xoa vẫn lên lớp đi học bình thường, thầy cô, bạn bè không biết Xoa đã có chồng. Mãi đến khi cái bụng dần to ra, em không thể đi học được nữa thì mọi người mới biết.
Nói về việc học sinh lấy vợ lấy chồng sớm, thầy Dũng cho biết do phong tục của người dân tộc nên nhà trường không thể can thiệp được. Trong mỗi giờ sinh hoạt, các thầy cô giáo cũng tuyên truyền, giáo dục các em về hôn nhân gia đình nhưng dường như không thể thắng được tập tục.
Điều khiến thầy Dũng nhớ nhất trong những ngày lên lớp là các câu hỏi ngây ngô, thật thà đến lạ thường của học sinh. Lần đầu tiên thầy Dũng lên công tác miền núi, một học sinh đứng lên hỏi: "Thầy đã có vợ chưa?", thầy Dũng liền đáp, chưa. Ngay lập tức cậu học trò này buông câu xanh rờn: "Thế thì thầy thua tao rồi". Thầy Dũng hỏi lại, sao lại thua? Cậu học sinh này đáp: "Tao có vợ rồi đấy". Thầy Dũng hỏi tiếp: Tuổi như các em lấy vợ thì biết cái gì? Cậu học trò này đáp lại: "Thầy nói sai rồi, ta biết sướng rồi đấy".
Theo VNE
"Quên ăn, quên ngủ" vì trúng số bạc tỷ Chiều 20/1, PV đã tìm ra gia đình nghèo trúng 2 tờ vé số đặc biệt mệnh giá 1,5 tỷ ở Cần Thơ. Đó là anh Hứa Hoàng Hôn (31 tuổi, trú tại phường Lê Bình, quận Cái Răng, TP. Cần Thơ), là người có thâm niên bán vé số hơn 10 năm qua tại khu vực chợ Cái Răng. Anh Hôn là...