Cuộc hồi sinh vĩ đại của dân tộc Việt Nam sau gần 100 năm bị nô dịch
“Thắng lợi Cách mạng tháng Tám là cuộc hồi sinh vĩ đại của dân tộc Việt Nam sau gần 100 năm bị nô dịch dưới ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật”, GS. TS Phạm Hồng Tung- Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, ĐH Quốc gia Hà Nội phân tích.
“Thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của trí tuệ, của tinh hoa – văn minh Việt Nam được kết tụ, vun bồi trong suốt hàng nghìn năm lịch sử và được nâng lên tầm cao thời đại trong đường lối cách mạng của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh”
Tại hội thảo Thủ đô Hà Nội truyền thống, nguồn lực, định hướng phát triển, GS. TS Phạm Hồng Tung – Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, ĐH Quốc gia Hà Nội đã phân tích rõ tầm vóc, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm Cách mạng tháng Tám ở Hà Nội cách đây 70 năm (19/8/1945-19/8/2015).
Theo GS. TS Phạm Hồng Tung, 70 năm về trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, toàn thể dân tộc ta đã nhất tề vùng lên tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là cuộc hồi sinh vĩ đại của dân tộc Việt Nam sau gần 100 năm bị nô dịch dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Biến cố “long trời lở đất” ấy cũng đánh dấu sự chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế đã tồn tại hàng chục thế kỷ trên đất nước ta, mở đường và chắp cánh để dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên lịch sử mới.
“Thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của trí tuệ, của tinh hoa – văn minh Việt Nam được kết tụ, vun bồi trong suốt hàng nghìn năm lịch sử và được nâng lên tầm cao thời đại trong đường lối cách mạng của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh”, GS. TS Phạm Hồng Tung đánh giá.
Theo GS. TS Phạm Hồng Tung thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945 là cuộc hồi sinh vĩ đại của dân tộc Việt Nam sau gần 100 năm bị nô dịch
Bài viết của GS. TS Phạm Hồng Tung cũng chỉ rõ khi cuộc Chiến tranh Thế giới thứ II đến hồi chung cuộc, phát xít Nhật đã lật đổ chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam vào đêm 9/3/1945. Việc “hai quân cướp nước cắn xé nhau chí tử” đã tạo điều kiện thuận lợi để lực lượng cách mạng phát triển nhanh chóng. Cao trào “kháng Nhật cứu quốc” dâng lên sục sôi, nhiều cuộc khởi nghĩa từng phần đã nổ ra và giành thắng lợi.
Ngày 4/6/1945, khu giải phóng ra đời gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng phụ cận. Chính quyền cách mạng đã bước đầu hình thành với “Thủ đô” ở Tân Trào. Toàn dân tộc Việt Nam cùng sục sôi ý chí quyết vùng lên giành lấy quyền tự chủ, tự định đoạt tương lai của chính mình.
Chỉ trong vòng hai tuần lễ, cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra và giành thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu trên phạm vi toàn quốc. Ngày 30/8/1945, vua Bảo Đại thoái vị, trao ấn, kiếm cho đại diện chính quyền cách mạng. 14 giờ chiều ngày 2/9/1045, tại vườn hoa Ba Đình, Hà Nội diễn ra ngày hội non sông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố với toàn dân Việt Nam và với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Video đang HOT
Trong quá trình Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong phạm vi toàn quốc, theo GS. TS Phạm Hồng Tung, cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội có tầm vóc và ý nghĩa rất đặc biệt. Ngày 15/8/1945, Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Tin tức dội tới Hà Nội như một cơn địa chấn khổng lồ, làm cho quân Nhật hoang mang dao động, chính phủ bù nhìn lung lay đến tận gốc rễ. Trong khi đó các tầng lớp nhân dân đều sục sôi, sẵn sàng vùng lên tự mình nắm lấy vận mệnh dân tộc.
Thảm trạng đau thương của nạn đói năm Ất Dậu cùng những tin tức về đoàn quân tái chiếm thuộc địa của thực dân Pháp đang lăm le quay lại từ nhiều hướng càng làm cho bầu không khí ở Hà Nội và khắp cả nước thêm nóng bỏng. Một số đảng phái thân Nhật, như Đại Việt quốc xã, Đại Việt quốc dân đảng… cũng ra sức tranh thủ cơ hội, rắp tâm nhảy ra lợi dụng quần chúng để cướp chính quyền.
Tối ngày 14 và 15/8, Xứ ủy Bắc Kỳ đã họp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông). Dù chưa nhận được chỉ thị từ Trung ương, nhưng khi phân tích kỹ tình hình, căn cứ vào Chỉ thị ngày 12/3/1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Xứ ủy cho rằng thời cơ đã tới và quyết định khởi nghĩa giành chính quyền ở 10 tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.
Riêng đối với Hà Nội, Xứ ủy cho rằng việc khởi nghĩa cần phải cân nhắc kỹ, bởi ở đây tập trung tới hơn 10.000 quân Nhật. Vì vậy, Xứ ủy quyết định thành lập ngay Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội do Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nguyễn Khang đứng đầu. Ủy ban có nhiệm vụ xúc tiến các điều kiện tiến tới lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội.
Thời điểm đó số quân Nhật ở Việt Nam lên đến trên 90.000 người, tuy có khủng hoảng tinh thần nhưng trước sau đây vẫn là đội quân có tính kỷ luật rất cao. Riêng ở Hà Nội số quân Nhật là hơn 10.000 người, trong khi đó, toàn bộ lực lượng vũ trang cách mạng của ta chỉ có 3 chi đội, tổng cộng khoảng 700 người, phần lớn được trang bị thô sơ, dù sục sôi tinh thần chiến đấu nhưng chưa có kinh nghiệm trận mạc.
Theo GS. TS Phạm Hồng Tung, sự chênh lệch quá lớn về lực lượng là vấn đề Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội băn khoăn nhất. Từ ngày 15 và suốt ngày 16/8, Ủy ban và Thành ủy liên tục họp bàn, nhưng chưa xác định đối sách tối ưu với quân Nhật.
Trước những băn khoăn đó thì nhận được tin Tổng hội công chức đang ra sức huy động quần chúng tổ chức một cuộc mít tinh lớn vào ngày 17/8 để ủng hộ nội các Trần Trọng Kim. Ngay lập tức, Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội đã quyết định chiếm diễn đàn, biến cuộc mít tinh của chúng thành cuộc mít tinh của ta, vừa tranh thủ tập hợp quần chúng, vừa kiểm tra thái độ và mức độ phản ứng của quân Nhật và chính quyền bù nhìn.
Ngày 19/8, cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội đã diễn ra nhanh gọn, ít đổ máu, theo đúng kế hoạch của Thành ủy và Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội. Sau cuộc mít tinh khổng lồ ở quảng trường Nhà hát lớn, hơn 200.000 quần chúng dưới sự lãnh đạo của Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội đã tỏa đi chiếm công sở, cơ quan trọng yếu. Chính phủ bù nhìn thân Nhật bị buộc phải đầu hàng nhanh chóng.
Tuy nhiên, cuộc đánh chiếm trại Bảo An binh diễn ra không thuận lợi. Khi lực lượng quần chúng do ông Nguyễn Quyết – Bí thư Thành ủy và Đoàn thanh niên xung phong dẫn đầu kéo đến tước vũ khí của đại đội Bảo An binh thì quân Nhật cho xe tăng và binh lính ra ngăn cản đòi tước vũ khí quân cách mạng và chiếm lại trại Bảo An binh.
Trước tình thế gay go đó, vận dụng kinh nghiệm đã có, Ủy ban Quận sự cách mạng và Thành ủy một mặt huy động thêm quần chúng phản đối quân Nhật can thiệp. Đồng thời, ta cử người đến Bộ Tổng tham mưu Nhật thương lượng. Cuối cùng, Bộ Tổng tham mưu Nhật nhượng bộ, rút xe tăng và lính về. Cuộc Tổng khởi nghĩa đã toàn thắng ở Thủ đô.
Ngay ngày hôm sau, chính quyền cách mạng được thành lập và ra mắt nhân dân. Trong không khí tưng bừng, phấn khởi, Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân Hà Nội khẩn trương ổn định tình hình, chuẩn bị để Hà Nội trở thành Thủ đô của nước Việt Nam mới.
GS. TS Phạm Hồng Tung viết, cuộc Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội có tác động lan tỏa mạnh mẽ đến nhiều địa phương trong cả nước. Ngay trong đêm ngày 19/8, từ Dinh Khâm sai, Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội dùng điện thoại yêu cầu một số tỉnh trưởng ở Bắc Bộ ban giao chính quyền cho đại diện Việt Minh.
Làn sóng khởi Tổng khởi nghĩa lan nhanh trên cả nước. Ở Sài Gòn và nhiều tỉnh thành phố khác, đảng bộ và Mặt trận Việt Minh nhận được tin Hà Nội khởi nghĩa thành công đã nhanh chóng đi đến quyết định phát động quần chúng vùng lên giành chính quyền.
Quang Phong
Theo Dantri
Cuộc đời chìm nổi của Trần Trọng Kim
Ông Trần Trọng Kim, biệt hiệu Lệ Thần, là một học giả, một nhà viết sử, một nhà sư phạm đã từng dạy học ở trưởng Bưởi, trường Sĩ Hoạn...
Ông Trần Trọng Kim, biệt hiệu Lệ Thần, là một học giả, một nhà viết sử, một nhà sư phạm đã từng dạy học ở trưởng Bưởi, trường Sĩ Hoạn...
Ông Trần Trọng Kim, biệt hiệu Lệ Thần, là một học giả, một nhà viết sử, một nhà sư phạm đã từng dạy học ở trưởng Bưởi, trường Sĩ Hoạn, rồi làm thanh tra tiểu học Bắc kỳ, hiệu trưởng trường tiểu học Nam ở Hà Nội đến năm 1942 thì về nghỉ hưu. Sau đó Trần Trọng Kim đã trở thành một trong những nhân vật chính sau cuộc đảo chính của phát xít Nhật.
Nhật chú ý, Pháp theo dõi
Trần Trọng Kim sinh năm Quý Mùi (1883) và mất vào ngày 2/12/1953 tại Đà Lạt. Từ năm 1940, khi mới đặt chân đến Hà Nội, phát xít Nhật đã chú ý đến vị học giả này và thường đi lại giao du, lấy cớ hỏi về lịch sử, tôn giáo, nhưng thực chất chủ yếu là muốn (theo lời ông Kim) "dò xét tình ý nhân sĩ trong nước". Vì chuyện giao du đó giữa phát xít Nhật và ông Trần Trọng Kim, bọn thực dân Pháp cũng chú ý theo dõi ông và ngày 27/11/1943, bọn thực dân Pháp định bắt ông.
Hiến binh Nhật (Kampetai) đã đến báo cho Trần Trọng Kim biết và với sự đồng ý của ông, phát xít Nhật đứng ra can thiệp, cho quân Nhật đưa ông vào Sài Gòn, rồi sang Singapore cùng với ông Dương Bá Trạc (ông Dương Bá Trạc là một nhà Hán học, đỗ cử nhân lúc 16 tuổi, theo ông Phan Bội Châu hoạt động cách mạng, bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo, khi trở về bị cưỡng bách lưu trú ở Nam kỳ. Ông cùng Trần Trọng Kim công tác biên soạn bộ Việt Nam từ điển) nói là sang Singapore để gặp "ông Cường Để cùng những người khác nữa để họp nhau làm việc".
Sang Singapore các ông chỉ ngồi chơi làm thơ phú giải khuây, chẳng gặp một người nào theo lời hứa của phát xít Nhật "sự ăn uống thiếu thốn, hoàn cảnh đìu hiu, tâm tình sầu muộn, nghĩ mình mắc vào cái cạm bẫy không sao gỡ ra được". Rồi ông Trần Trọng Kim mắc bệnh máu bốc lên đầu (bệnh cao huyết áp) ông Dương Bá Trạc cũng bị bệnh, quân y Nhật đến khám, chiếu điện thấy phổi bị phế nham (ung thư phổi). Ông Trạc mất ở Singapore và được hỏa táng tại đó.
Phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp năm 1945 tại Việt Nam.
Không dùng quân cờ Cường Để và Ngô Đình Diệm
Sau khi ông Dương Bá Trạc mất, Trần Trọng Kim đề nghị phát xít Nhật đưa ông sang Thái Lan. Phát xít Nhật đồng ý đưa ông đi bằng xe lửa đến Bangkok ở chung với hai con Cường Để là Tráng Liệt và Tráng Cử. Vào khoảng 2h sáng ngày 7/3/1945, mọi người đang ngủ, chợt có xe của hiến binh Nhật đến, bắt phải tức tốc đi ngay, đưa đến sở hiến binh bắt phải ở yên đó không được đi ra ngoài. Đến sáng ngày 10/3 thì được tin phát xít Nhật đã đảo chính thực dân Pháp ở Đông Dương.
Ngày 29/3 có một trung úy Nhật ở Sài Gòn sang Bangkok nói là có máy bay đón Trần Trọng Kim về Bộ Tư lệnh Nhật ở Sài Gòn để hỏi ông việc gì đó về lịch sử. Trưa ngày 30/3, về tới Tân Sơn Nhất, Trần Trọng Kim vào gặp Trung tướng tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nhật. Lúc đó ông này mới cho biết là ở Huế, ông Phạm Quỳnh và các ông Thượng thư đã từ chức cả, vua Bảo Đại điện mời những người có tên sau đây về Huế để hỏi ý kiến. Trần Trọng Kim xem bản danh sách thì có tên Hoàng Trọng Phu, Vũ Ngọc Oanh, Trịnh Bá Bách, Hoàng Xuân Hãn, Cao Xuân Cẩn và Trần Trọng Kim.
Ông Kim rất ngạc nhiên không thấy có tên ông Ngô Đình Diệm, tuy từ lâu ai cũng biết Ngô Đình Diệm được Cường Để ủy quyền cho việc lập chính phủ khi có đảo chính ở Đông Dương. Trần Trọng Kim gặp Ngô Đình Diệm thấy ông này cũng ngạc nhiên nói phát xít Nhật không cho ông hay biết gì cả. Điều đáng chú ý là chính đích thân Bảo Đại cũng nói với ông Kim: "Trẫm có điện gọi cả Ngô Đình Diệm về, sao không thấy về", Bảo Đại nói chờ xem sự thể thế nào.
Theo lời ông Trần Trọng Kim thì ở Huế, cứ ba ngày, ông lại lên hỏi ông cố vấn tối cao Yokohama, xem có tin tức gì về ông Ngô Đình Diệm không, thì chỉ được trả lời một cách hững hờ là chưa biết ông Diệm ở đâu. Sau đó ông Trần Trọng Kim mới được nói là ông Diệm bị bệnh không về được, nhưng thực tế là phát xít Nhật "không dùng quân cờ Cường Để và Ngô Đình Diệm".
(còn nữa)
Chí Đức
Theo_Kiến Thức
Xúc động với những hình ảnh mùa Thu lịch sử năm 1945 Hàng trăm bức ảnh ghi lại không khí của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 được Bảo tàng Lịch sử Quốc gia lưu giữ lại suốt 70 năm qua khiến nhiều người xem xúc động, bồi hồi. Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ 2 bước vào giai đoạn cuối. Tháng 3/1945, phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng...