Cuộc hội ngộ bất ngờ giữa mưa bom bão đạn
Cho đến giờ ông vẫn không quên giây phút ấy, giây phút giữa mưa bom bão đạn, ông gặp được người anh cả ruột thịt và người em họ. Sau những cái ôm, cái nắm tay và lời hẹn gặp lại, họ lại chia tay lên đường làm nhiệm vụ.
60 năm đã trôi qua, người chiến sĩ thanh niên xung phong (TNXP) năm xưa – Phùng Sỹ Các chuẩn bị bước sang tuổi 80. Nhớ lại những ký ức Điện Biên Phủ, ông không khỏi bồi hồi xúc động. Với ông những năm tháng gian nan phục vụ chiến dịch Điện Biên và cuộc gặp gỡ bất ngờ của ông với những người anh em ruột thịt không thể nào phai mờ.
Căm thù giặc, hai anh em quyết tâm ra chiến trường
Người lính TNXP Phùng Sỹ Các quê gốc ở huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Từ những năm 1949 quê ông đã bị giặc Pháp tàn phá, đánh chiếm ác liệt. Năm 1949, chúng đánh ở xã Tây Hồ khiến 4 người chết trong đó có cô chú ruột của ông. Một số trận đánh sau đó chúng bỏ bom na pan ở chợ khiến hàng trăm người chết. Năm 1952, giặc Pháp đánh vỡ đập Bái Thượng, toàn bộ cánh đồng 5 vạn ha của Đông Sơn, Thọ Xuân, Triệu Sơn, Nông Cống… không có nước trồng lúa để nuôi bộ đội mà phải trồng khoai, đậu.
Lòng căm thù giặc đã ấp ủ trong trái tim những thanh niên quê ông, trong đó có ông và anh trai mình. Năm 1949, người anh cả của ông lên đường ra mặt trận; cuối năm 1953 ông cũng xung phong đi góp sức mình cho kháng chiến. Ngày đó ông mới bước sang tuổi 17.
“Anh trai tôi vào bộ đội trước tôi 4 năm, anh ấy thuộc sư đoàn 304, tham gia trực tiếp đánh ở trận địa Điện Biên Phủ, còn tôi thì vào đội TNXP phục vụ ở khu vực hỏa tuyến “cửa ngõ” của Điện Biên” – ông Các cho biết.
“Ngày tôi lên đường cũng chẳng khác gì anh trai mình, thời đó khó khăn, thiếu thốn nên hành trang mang theo không có giày chỉ có một bộ áo nâu mặc và 1 bộ gấp mang theo, 1 tấm bạt được phát để khi trời mưa thì làm áo mưa còn lúc ngủ thì dùng làm chiếu cùng một chiếc chăn mỏng và một ít gạo mang theo. Tất cả được bỏ trong một đôi bồ để gánh. Cuộc hành trình xuyên rừng xuyên đêm bắt đầu.
60 năm trôi qua nhưng những gian khổ và cuộc gặp gỡ bất ngờ trong mưa bom bão đạn giữa ông và người anh vẫn vẹn nguyên trong ký ức
Mỗi ngày đi bộ hơn 30 cây số, đường núi dốc cheo leo, những con dốc dựng đứng cao chọc trời, anh em phần lớn là học sinh nên ai nấy đều thấy cuộc hành quân rất vất vả. Đường xa, đòn gánh đè đau vai nên anh em đều lấy nốt bộ quần áo mang theo quấn vào đòn gánh để gánh”.
“Nhớ những ngày đang hành quân giữa rừng thi bị máy bay địch tấn công, cả đoàn phải rẽ ra hai bên mép rừng. Cả ngày, cả đêm máy bay địch quần thảo trên bầu trời khiến anh em không thể nấu được cơm, nhịn đói một ngày một đêm sau đó mới được ăn cơm rồi lại tiếp tục lên đường. Cho đến giờ không hiểu sao ngày đó mình khỏe thế. Hay những lần vượt những ngọn đèo cao như đèo Pha Đin, ngọn đèo này được cho là đất giáp trời với những đường cua gấp khúc. Con đèo dài đến chừng hơn 30km, đi suốt một đêm cho tới sáng hôm sau mới xuống chân đèo và nghỉ thế nhưng anh em chúng tôi vẫn thấy như có sức mạnh nào kéo chân đi. Không muốn dừng, chỉ muốn nhanh nhanh vào đến hỏa tuyến để phục vụ cho chiến đấu” – ông Các nhớ lại.
Khoảng 1 tháng hành quân từ hậu phương thì vào đến khu vực hỏa tuyến. Đơn vị ông được bố trí làm việc tại Km 15-km31, công việc chủ yếu là san đường, lấp suối, phá bom đạn, kéo xe…
Video đang HOT
Chiến trường ngày đó mù mịt khói lửa, nhưng sức trẻ căng tràn, trong mưa bom bão đạn chỉ biết thông đường, giữ vững mạch máu giao thông. Địch đánh ban ngày thì anh em TNXP tranh thủ làm đêm, vận chuyển hàng ngàn mét khối đất, đá dăm vá đắp nền đường, san lấp hố bom, dò tìm những quả bom nổ chậm địch thả xuống. Trời lạnh căm căm, anh em TNXP chỉ có manh áo mỏng nhưng vẫn không quản, vẫn hoạt động liên tục không ngơi nghỉ một chút nào.
Khi được hỏi điều gì khiến những người lính TNXP có thể vượt qua mọi gian nan, hiểm nguy thì ông cho biết: “Khó khăn gian khổ là vậy nhưng chỉ nghĩ đến việc giải phóng Điện Biên là mọi mệt mỏi như tan biến. Chúng tôi tin vào Đảng và cách mạng tuyệt đối, một niềm tin sắt đá rằng kháng chiến sẽ thành công”.
Cuộc đoàn tụ bất ngờ
“Xác định ra chiến trường, cống hiến cho cách mạng là xác định một mất một còn. Dường như lòng căm thù giặc át hết hay sao mà nghĩ nếu có hy sinh trong kháng chiến cũng là cái chết nhẹ nhàng lắm nên chẳng biết sợ là gì, được ra chiến trường là mừng lắm rồi. Anh cả tôi đi trước tôi mấy năm, ngày tôi lên đường cũng là chừng ấy năm không có tin tức gì của anh. Lúc đó cũng không biết anh còn hay đã hy sinh. Trong thâm tâm mình vẫn có lúc mong ước được gặp anh nhưng không bao giờ nghĩ ước mơ đó lại trở thành hiện thực” – ông tâm sự.
“Thế rồi vào một hôm trời đã tối khoảng 9h đêm, khi tôi đang làm nhiệm vụ bạt ta lui đường ở km 31 thì có đoàn bộ đội đi đến. Trong đoàn có một người nói to Điện Biên Phủ sắp giải phóng rồi, sắp thắng lớn rồi các đồng chí ơi. Bất giác tôi giật mình, tiếng nói quen lắm, tiếng nói ấy không thể lẫn đi đâu được chỉ có thể là anh trai mình. Tôi chạy lại, trong đêm tối lờ mờ tôi không nhìn rõ mặt ai chỉ hô to: có phải anh Thiều không. Anh tôi trả lời:Thiều đây. Tôi vui sướng quá ôm chầm lấy anh mình, vừa đưa bàn tay sờ khắp mặt vừa nói với anh: em Các đây, anh có khỏe không? Là anh trai tôi, vẫn còn sống và khỏe mạnh. Chỉ có mấy phút được gặp nhau nhưng xúc động không ai nói thành lời. Chúng tôi hẹn ngày gặp lại”.
Ông Các giữa đời thường
Ông bảo có lẽ nếu ai chưa từng trải qua cái khoảnh khắc ấy thì sẽ không hiểu được cảm giác được gặp gỡ người thân giữa mưa bom lửa đạn nó như thế nào. Chỉ được nắm tay, ôm nhau vài phút và nghẹn ngào không nói nên lời chỉ duy có lời hẹn gặp lại nhưng niềm hạnh phúc thì không thể tả hết được. Chỉ cần biết người anh em của mình vẫn còn sống, trái tim vẫn còn đập ở đây như thế là mãn nguyện lắm rồi. Giữa thời khắc chiến tranh khốc liệt mà vẫn gặp được anh trai mình thì thật là hiếm hoi. Cho đến giờ nhớ lại, ông vẫn chưa nguôi cái cảm giác ấy.
Không chỉ may mắn gặp được anh trai cả của mình mà ông Các sau đó còn một lần được gặp người em họ. Cũng trong đêm, cũng trong những giây phút ngắn ngủi. Lần gặp ấy ông kể có thanh đường đen trong túi, ông ăn một miếng, người em họ ăn một miếng mà xúc động đến mức cả hai không nuốt nổi. Lúc chia tay, ông Các nhớ còn cho người em họ một chiếc quần vì trời quá lạnh mà thấy người em chỉ mặc một chiếc quần mỏng.
Sau này chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, đất nước giải phóng, anh em ông Các may mắn trở về. Cho đến bây giờ, 60 năm đã trôi qua, khoảnh khắc được nắm tay, được ôm nhau giữa màn mưa bom bão đạn ấy, anh em ông không thể nào quên.
Nguyễn Thùy
Theo Dantri
Ký ức về những ngày bám trận địa viết báo ở Điện Biên Phủ
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, những người phóng viên cũng là những người lính. Vũ khí của họ chính là những bài viết ca ngợi lòng dũng cảm, mưu trí, sự hi sinh gian khổ để kịp thời cổ vũ tinh thần chiến đấu của cán bộ chiến sỹ trên khắp mặt trận.
Ông Nguyễn Thế Viên - nguyên phóng viên Tờ tin mặt trận của đại đoàn 312 trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tại chiến trường Điện Biên Phủ, ngoài tòa soạn do một bộ phận cán bộ, phóng viên Báo Quân đội nhân dân phụ trách, xuất bản một tờ báo ngay ở chiến trường thì trong từng trung đoàn, đại đoàn cũng có một tờ tin của riêng mình, mang tên "Tờ tin mặt trận". Tờ tin này do các "anh phóng viên tập sự" đóng góp bài vở là chủ yếu.
"Từ hồi ở đoàn dân công tôi đã tập tành viết bài, đưa tin về hoạt động của đơn vị. Chiến dịch nổ ra, tôi và một số đồng chí được phân công đi theo các đại đoàn để kịp thời đưa tin về cuộc chiến đấu của quân ta. Tôi đi theo đại đoàn 312. Không máy ảnh, không máy ghi âm. Phương tiện tác nghiệp của chúng tôi lúc đó chỉ là cuốn sổ tay, cây bút chì và trí nhớ của mình", cựu PV chiến trường Điện Biên Nguyễn Thế Viên (SN 1930, trú tại xã Hùng Thành, Yên Thành, Nghệ An) nhớ lại.
Tác phẩm đầu tiên của Nguyễn Thế Viên với bút danh Hồng Sơn được "đăng" ở "Tờ tin mặt trận" của đại đoàn 312 chính là tin về đội công binh phá thác trên sông Nậm Na do Trung đội 5, đại đội 124, tiểu đoàn 555 thực hiện. Một mẩu tin nhỏ về thành công của việc phá thác, mở đường vận chuyển các vũ khí hạng nặng từ hậu cứ ra chiến trường nhưng đã khiến anh "phóng viên" Hồng Sơn vui đến không ngủ.
Ông Nguyễn Thế Viên kể tiếp: "Làm cái anh phóng viên chiến trường ngày ấy cũng không khác một người lính là bao. Chỉ khác ở chỗ là trong khi bộ đội chiến đấu với kẻ thù thì chúng tôi súng khoác vai, tay giữ khư khư bút và giấy để kịp thời ghi lại một cách chân thực nhất, đầy đủ nhất về cuộc chiến đấu ngoan cường đang diễn ra trước mắt".
56 ngày đêm lăn lộn bám trận địa đưa tin, viết được bao nhiêu tin, bài chính ông cũng không còn nhớ rõ. Nhưng những trận đánh ông có mặt để ghi lại một cách chân thực và sống động thực tế chiến đấu của quân dân ta thì vẫn nguyên vẹn trong ký ức.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, người phóng viên cũng là một người lính. Chỉ có điều vũ khí của họ là những bài viết ca ngợi chiến công và lòng dũng cảm, mưu trí, gan dạ của bộ đội trên khắp chiến trường.
"Tôi còn nhớ lần đơn vị phá bom nổ chậm ở ngã ba Cò Nòi (Sơn La). Đó là đội 34, C 297 - TNXP. Đoạn đường này Pháp thả 60 quả bom nổ chậm, có tới 20 quả bom chưa nổ. Lực lượng phá bom đã tìm và phá được 19 quả, một quả nằm sâu dưới đất nên không tìm thấy. Khi toàn đội đang tích cực tìm bom để kịp thông đường thì tiếng nổ chát chúa vang lên.
14 trong tổng số 16 đồng chí hi sinh tại chỗ. Bản thân tôi cũng bị bom vùi nhưng được cứu sống. Chứng kiến phút giây hy sinh oanh liệt của các đồng chí, tôi đã viết ngay một bài tường thuật đăng trên Tờ tin mặt trận của đại đoàn", ông kể tiếp
Những ngày sau, khi cuộc chiến tranh ngày càng trở nên khốc liệt thì bút giấy để phục vụ việc thu thập tư liệu cũng hết. May mắn ông Viên được tặng một chiếc bút máy chiến lợi phẩm ta lấy được của địch. Còn giấy viết thì nan giải lắm. Những tờ giấy đã viết được ngâm vào nước vôi trong để tẩy trắng rồi phơi khô để tái sử dụng. Nếu như báo Quân đội nhân dân xuất bản tại chiến trường được in ấn đàng hoàng thì những bài viết đăng ở các Tờ tin mặt trận được phát hành bằng một cách rất đặc biệt: Chép tay rồi chuyển ra ngay chiến hào để phục vụ bộ đội.
Những bài báo xuất bản với cách đặc biệt như thế này đã kịp thời đến và động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu của các chiến sỹ. Các tờ tin được viết tay trên những tờ giấy tái sử dụng được bộ đội đón nhận và đọc say sưa ngay giữa lúc ngơi tiếng súng đạn. Mỗi bài viết, mỗi tờ tin là món ăn tinh thần hết sức quý báu đối với bộ đội lúc đó. Tác phẩm của mình được độc giả đặc biệt chờ đợi và đón nhận chính là động lực lớn lao để những phóng viên chiến trường như ông Viên khắc phục những khó khăn, hiểm nguy để tác nghiệp.
Cuộc chiến đấu ác liệt, tinh thần chiến đấu quả cảm, ngoan cường của bộ đội ta đã trở thành một kho tư liệu khổng lồ cho mỗi phóng viên. Thế nhưng lựa chọn viết cái gì, viết như thế nào để đạt được hiệu quả tuyên truyền, cổ vũ lớn nhất trong chiến dịch lịch sử này cũng khiến ông Viên đau đầu suy nghĩ. "Có những sự kiện, những cuộc chiến đấu tôi chỉ được phép "cô" lại thành một cái tin ngắn nên có khi phải viết đi viết lại 6-7 lần mới đạt được yêu cầu. Từ mặt trận, khi cuộc chiến kết thúc, chúng tôi phải chạy thật nhanh về chỉ huy sở để nghe báo cáo, đánh giá rồi viết để kịp thời "xuất bản".
Ông Viên (áo trắng) và người đồng đội Điện Biên Phủ tại cuộc triển lãm "Điện Biên Phủ - một thiên sử vàng" được tổ chức tại TP Vinh cuối tháng 4/2014.
Trời rét, chăn không có, chỉ có chiếc áo trấn thủ, chúng tôi lăn lộn khắp chiến trường để viết. Gian khổ không nói hết được nhưng tự mỗi người phóng viên chúng tôi thấy được trách nhiệm lớn lao của mình trong việc ghi lại một cách chân thực nhất những khốc liệt của chiến tranh, những hành động anh dũng, kiên cường của quân và dân ta trên các trận địa", ông Viên kể tiếp.
Chính những ngày tháng ở Điện Biên đã cho ông những kinh nghiệm quý báu cho nghề báo khi chưa được đào tạo qua trường lớp chuyên ngành nào. Kết thúc chiến dịch, ông mới được cử đi đào tạo một cách bài bản và trở thành người viết báo thực thụ ở Đài Tiếng nói Việt Nam rồi vào công tác tại Báo Quân Giải phóng sau này với bút danh Trường Sơn.
Trải qua 2 cuộc chiến tranh, viết hàng nghìn tác phẩm báo chí nhưng những ngày chập chững vào nghề ở chiến trường khốc liệt Điên Biên Phủ vẫn luôn là ký ức không thể nào phai mờ trong tâm trí ông. Ở cái tuổi xưa nay hiếm, ông vẫn cầm máy ảnh đi và viết. Vẫn là những bài viết tay trên giấy như hồi ở Điện Biên rồi đóng gói vào bì thư, gửi tới một số tòa soạn báo và hồi hộp chờ đợi "đứa con tinh thần" của mình đến với bạn đọc.
Và cũng thật ý nghĩa khi những ngày tháng 5 lịch sử này ông lại giành giải thưởng cao (giải 3) tại cuộc thi viết về cuộc chiến Điện Biên Phủ do Trung ương Hội cựu chiến binh Việt Nam phát động và tổ chức. Đó là bài viết về người anh hùng phá thác Phan Tư - đề tài viết báo đầu tiên của ông ở chiến dịch Điện Biên Phủ.
Hoàng Lam
Theo Dantri
"Điện Biên Phủ - 60 năm một bản hùng ca" Sáng 7/5, tại Bảo tàng Tổng hợp Bình Định (TP Quy Nhơn, Bình Định) đã tổ chức trưng bày triển lãm chuyên đề "Chiến thắng Điện Biên Phủ - 60 năm một bản hùng ca", thu hút đông đảo quần chúng nhân dân và học sinh đến xem. Đây là hoạt động mang ý nghĩa lịch sử to lớn của dân tộc và...