Cuộc đời chìm nổi của Trần Trọng Kim
Ông Trần Trọng Kim, biệt hiệu Lệ Thần, là một học giả, một nhà viết sử, một nhà sư phạm đã từng dạy học ở trưởng Bưởi, trường Sĩ Hoạn…
Ông Trần Trọng Kim, biệt hiệu Lệ Thần, là một học giả, một nhà viết sử, một nhà sư phạm đã từng dạy học ở trưởng Bưởi, trường Sĩ Hoạn…
Ông Trần Trọng Kim, biệt hiệu Lệ Thần, là một học giả, một nhà viết sử, một nhà sư phạm đã từng dạy học ở trưởng Bưởi, trường Sĩ Hoạn, rồi làm thanh tra tiểu học Bắc kỳ, hiệu trưởng trường tiểu học Nam ở Hà Nội đến năm 1942 thì về nghỉ hưu. Sau đó Trần Trọng Kim đã trở thành một trong những nhân vật chính sau cuộc đảo chính của phát xít Nhật.
Nhật chú ý, Pháp theo dõi
Trần Trọng Kim sinh năm Quý Mùi (1883) và mất vào ngày 2/12/1953 tại Đà Lạt. Từ năm 1940, khi mới đặt chân đến Hà Nội, phát xít Nhật đã chú ý đến vị học giả này và thường đi lại giao du, lấy cớ hỏi về lịch sử, tôn giáo, nhưng thực chất chủ yếu là muốn (theo lời ông Kim) “dò xét tình ý nhân sĩ trong nước”. Vì chuyện giao du đó giữa phát xít Nhật và ông Trần Trọng Kim, bọn thực dân Pháp cũng chú ý theo dõi ông và ngày 27/11/1943, bọn thực dân Pháp định bắt ông.
Hiến binh Nhật (Kampetai) đã đến báo cho Trần Trọng Kim biết và với sự đồng ý của ông, phát xít Nhật đứng ra can thiệp, cho quân Nhật đưa ông vào Sài Gòn, rồi sang Singapore cùng với ông Dương Bá Trạc (ông Dương Bá Trạc là một nhà Hán học, đỗ cử nhân lúc 16 tuổi, theo ông Phan Bội Châu hoạt động cách mạng, bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo, khi trở về bị cưỡng bách lưu trú ở Nam kỳ. Ông cùng Trần Trọng Kim công tác biên soạn bộ Việt Nam từ điển) nói là sang Singapore để gặp “ông Cường Để cùng những người khác nữa để họp nhau làm việc”.
Sang Singapore các ông chỉ ngồi chơi làm thơ phú giải khuây, chẳng gặp một người nào theo lời hứa của phát xít Nhật “sự ăn uống thiếu thốn, hoàn cảnh đìu hiu, tâm tình sầu muộn, nghĩ mình mắc vào cái cạm bẫy không sao gỡ ra được”. Rồi ông Trần Trọng Kim mắc bệnh máu bốc lên đầu (bệnh cao huyết áp) ông Dương Bá Trạc cũng bị bệnh, quân y Nhật đến khám, chiếu điện thấy phổi bị phế nham (ung thư phổi). Ông Trạc mất ở Singapore và được hỏa táng tại đó.
Phát xít Nhật đảo chính thực dân Pháp năm 1945 tại Việt Nam.
Video đang HOT
Không dùng quân cờ Cường Để và Ngô Đình Diệm
Sau khi ông Dương Bá Trạc mất, Trần Trọng Kim đề nghị phát xít Nhật đưa ông sang Thái Lan. Phát xít Nhật đồng ý đưa ông đi bằng xe lửa đến Bangkok ở chung với hai con Cường Để là Tráng Liệt và Tráng Cử. Vào khoảng 2h sáng ngày 7/3/1945, mọi người đang ngủ, chợt có xe của hiến binh Nhật đến, bắt phải tức tốc đi ngay, đưa đến sở hiến binh bắt phải ở yên đó không được đi ra ngoài. Đến sáng ngày 10/3 thì được tin phát xít Nhật đã đảo chính thực dân Pháp ở Đông Dương.
Ngày 29/3 có một trung úy Nhật ở Sài Gòn sang Bangkok nói là có máy bay đón Trần Trọng Kim về Bộ Tư lệnh Nhật ở Sài Gòn để hỏi ông việc gì đó về lịch sử. Trưa ngày 30/3, về tới Tân Sơn Nhất, Trần Trọng Kim vào gặp Trung tướng tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Nhật. Lúc đó ông này mới cho biết là ở Huế, ông Phạm Quỳnh và các ông Thượng thư đã từ chức cả, vua Bảo Đại điện mời những người có tên sau đây về Huế để hỏi ý kiến. Trần Trọng Kim xem bản danh sách thì có tên Hoàng Trọng Phu, Vũ Ngọc Oanh, Trịnh Bá Bách, Hoàng Xuân Hãn, Cao Xuân Cẩn và Trần Trọng Kim.
Ông Kim rất ngạc nhiên không thấy có tên ông Ngô Đình Diệm, tuy từ lâu ai cũng biết Ngô Đình Diệm được Cường Để ủy quyền cho việc lập chính phủ khi có đảo chính ở Đông Dương. Trần Trọng Kim gặp Ngô Đình Diệm thấy ông này cũng ngạc nhiên nói phát xít Nhật không cho ông hay biết gì cả. Điều đáng chú ý là chính đích thân Bảo Đại cũng nói với ông Kim: “Trẫm có điện gọi cả Ngô Đình Diệm về, sao không thấy về”, Bảo Đại nói chờ xem sự thể thế nào.
Theo lời ông Trần Trọng Kim thì ở Huế, cứ ba ngày, ông lại lên hỏi ông cố vấn tối cao Yokohama, xem có tin tức gì về ông Ngô Đình Diệm không, thì chỉ được trả lời một cách hững hờ là chưa biết ông Diệm ở đâu. Sau đó ông Trần Trọng Kim mới được nói là ông Diệm bị bệnh không về được, nhưng thực tế là phát xít Nhật “không dùng quân cờ Cường Để và Ngô Đình Diệm”.
(còn nữa)
Chí Đức
Theo_Kiến Thức
Tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa trong những màn phù phép của CIA
LTS: Cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 đã kết thúc chương đầu tiên trong lịch sử can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, Mỹ đã không từ bỏ mưu đồ để rồi phải nếm thêm "trái đắng" ở chương can thiệp tiếp theo.
Những thất bại nặng nề mà Mỹ gánh chịu đã bị phơi bày qua các tài liệu do Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) giải mật, được sử gia T.A-hơn (Thomas L.Ahern, Jr.) tổng hợp trong cuốn sách có nhan đề "CIA and the Generals" (CIA và các tướng lĩnh). Báo Quân đội nhân dân xin trích giới thiệu một số nội dung chính trong cuốn sách này.
Kỳ 1: "Một cổ hai tròng"
Có một thực tế rõ ràng, đó là sau cuộc đảo chính dẫn tới cái chết của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, CIA thật sự gặp rất nhiều khó khăn không chỉ từ việc bị Tòa đại sứ "kiểm soát" mà còn do tình hình rối ren của Sài Gòn khi các tướng lĩnh đấu đá lẫn nhau để tranh giành quyền lợi.
Tướng Nguyễn Khánh (bên phải) trong cuộc họp báo ngày 30-1-1964. Ảnh tư liệu
"Anh em" đối đầu
Cho đến trước khi Ngô Đình Diệm bị sát hại, Tổng thống G.Ken-nơ-đi (John F.Kennedy) đã tăng nhân sự Mỹ từ con số 875 lên 16.000 người, trong đó nhân sự CIA hoạt động tại Trạm Sài Gòn khoảng 200 người và đóng vai trò lớn trong lịch sử ngắn ngủi của chế độ chính trị miền Nam Việt Nam. Vậy nhưng, thế sự đã đổi thay khó lường!
Chỉ một ngày sau đảo chính, ông Bùi Diễm, một chính trị gia gốc đảng Đại Việt có nhiều quan hệ với CIA cho CIA biết, các tướng đảo chính sẵn sàng nghe khuyến nghị của CIA trong việc xây dựng "chế độ mới". Tuy nhiên, Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn C.Lốt-giơ (Cabot Lodge) không muốn CIA quan hệ quá cận kề với các ông tướng. CIA không còn được toàn quyền tự do hành động mà tất cả đều phải do Tòa đại sứ đóng vai trò chủ chốt. Một quy tắc mà Đại sứ C.Lốt-giơ đưa ra bắt buộc ai cũng phải thuộc nằm lòng là "chỉ được triển khai chiến thuật chứ không được tham gia hoạch định chiến lược". Trong khi đó, theo các báo cáo hằng ngày CIA gửi về trụ sở ở Lang-li (bang Vơ-gi-ni-a) thì sau đảo chính, không khí chính trị Sài Gòn rất bấp bênh.
Ngày 4-11-1963, do sự khẩn khoản của tướng Trần Văn Đôn, Đại sứ C.Lốt-giơ "cho phép" CIA báo cáo với tướng Dương Văn Minh về các chương trình bí mật mà CIA đang tiến hành và CIA muốn tận dụng cơ hội này cố vấn cho tướng Dương Văn Minh về một số vấn đề chính trị. Dẫu vậy, Đại sứ C.Lốt-giơ chỉ "cho phép" CIA cố vấn trong lĩnh vực tình báo và an ninh.
Ngày 5-11-1963, Trưởng phân cục Viễn Đông CIA U.Côn-bi (William Colby) đến Sài Gòn và có nhiều cuộc tiếp xúc chính trị với các tướng lĩnh. Qua chuyến công tác, ông U.Côn-bi báo cáo về Trụ sở rằng Đại sứ C.Lốt-giơ muốn chỉ huy mọi chuyện ở Sài Gòn theo ý mình. Giữa lúc đó, sáng 22-11-1963, Tổng thống G.Ken-nơ-đi bị ám sát tại TP Đa-lát (bang Tếch-dớt). Tổng thống L.Giôn-xơn (Lyndon B. Johnson) lên thay, quyết định giải quyết tình trạng bế tắc trong quan hệ giữa Tòa đại sứ và CIA ở Sài Gòn, trước lo ngại uy tín của chính quyền Oa-sinh-tơn sẽ bị tổn hại khi năm 1964-năm bầu cử tổng thống Mỹ, đang đến gần.
Ngày 2-12-1963, đích thân Tổng thống L.Giôn-xơn chọn P.Xin-va (Peer de Silva) làm Trưởng trạm CIA tại Sài Gòn thay thế G.Ri-chớt-xơn (John Richardson) về nước từ tháng 10-1963. Vào đêm trước khi bay sang Sài Gòn, P.Xin-va được Tổng thống Mỹ triệu tập đột xuất để dặn dò ông cẩn thận, tránh đối đầu với Đại sứ C.Lốt-giơ. Ngày 7-12, Tổng thống L.Giôn-xơn đánh điện cho Đại sứ C.Lốt-giơ với lời dặn rằng ông mong muốn có mối quan hệ tốt đẹp giữa Trưởng trạm CIA với Đại sứ: "Điều quan trọng trước tiên là giữa ông và ông ấy phải hoàn toàn hiểu nhau và hợp tác với nhau... Tôi không chỉ quan tâm đến sự hợp tác hiệu quả lâu dài mà còn muốn tránh để xảy ra những cuộc cãi vã ồn ào trên mặt báo".
Ai hơn ai?
Trước tình hình đó, các tướng Sài Gòn vẫn không ngừng chia rẽ và hất cẳng nhau. Giữa tháng 12-1963, tướng Dương Văn Minh thuyên chuyển tướng Nguyễn Khánh ra Vùng I chiến thuật ở Đà Nẵng. Đầu tháng 1-1964, tướng Dương Văn Minh tự phong làm Tổng tư lệnh quân đội. Theo nhận định của CIA, chỉ có tướng Dương Văn Minh là "có ấn tượng của một nhà lãnh đạo có khả năng liên kết nhóm tướng lĩnh võ biền với giới chính khách dân sự lại với nhau". Nhưng tướng Dương Văn Minh bị cho là "yếu đuối, ngây thơ về chính trị, nên có thể dễ dàng bị cấp dưới lật đổ".
Trong khi đó, Trưởng trạm CIA P.Xin-va vừa đến Sài Gòn đã được tướng Nguyễn Khánh săn đuổi ráo riết. P.Xin-va không muốn dính sâu vào chuyện đấu đá của các tướng nên lần lữa hẹn đến cuối tháng 1-1964, để rồi sau đó hủy cuộc hẹn do bị Đại sứ C.Lốt-giơ cấm! Tướng Khánh lập tức quay sang tiếp xúc với Đại tá G.Uyn-xơn (Jasper Wilson) thuộc Phái bộ viện trợ quân sự tại Việt Nam (MACV). Cuộc họp giữa G.Uyn-xơn với tướng Nguyễn Khánh nhận được cái gật đầu đồng ý của Đại sứ C.Lốt-giơ. Tại đây, tướng Nguyễn Khánh thông báo thành phần 5 tướng trong vụ án "các sĩ quan Đà Lạt", còn gọi là "nhóm tướng trung lập", gồm: Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân và Nguyễn Văn Vỹ, với cáo buộc nhóm tướng lĩnh này "âm mưu câu kết với người Pháp trung lập hóa miền Nam Việt Nam".
Vào lúc 15 giờ 15 phút ngày 30-1-1964, Đại tá G. Uyn-xơn từ Bộ chỉ huy Lữ đoàn Dù thông báo với Tòa đại sứ rằng, tướng Nguyễn Khánh cùng tướng Trần Thiện Khiêm sẽ làm đảo chính trong vòng vài giờ nữa để loại các tướng trung lập ra khỏi thành phần chính phủ, và rằng tướng Dương Văn Minh đã được thông báo và đồng ý. 20 phút sau, Phó đại sứ Đ.Nét (David Nes) triệu tập Trưởng trạm CIA P.Xin-va đến Tòa đại sứ để thông báo. "Nhóm tướng trung lập" cuối cùng bị đưa lên Đà Lạt giam lỏng trong khi tướng Dương Văn Minh được giữ lại làm Quốc trưởng.
Câu hỏi đặt ra đối với CIA là giúp tướng Dương Văn Minh, rồi giúp tướng Nguyễn Khánh, Mỹ có làm cho các tướng đoàn kết với nhau và có huy động được sự ủng hộ của quần chúng miền Nam trong công cuộc chống "Việt Cộng" hay không? Câu trả lời là "không". Chính vì vậy, CIA cam kết ủng hộ tướng Nguyễn Khánh, nhưng đồng thời vẫn tiếp tục duy trì tất cả các quan hệ với các nhóm chính trị đối lập, như đảng Đại Việt. Theo CIA, mọi nỗ lực của Mỹ đối với Ngô Đình Diệm trong năm 1955, cũng như sau này đối với tướng Dương Văn Minh, tướng Nguyễn Khánh chỉ có kết quả kéo dài một tình trạng không tránh được là sụp đổ.
Theo Văn Dũng
Quân đội Nhân dân
Chiếc chuông huyền bí đúc từ 2 xu của người ăn mày Sau nhiều đồng xu góp nhặt của dân làng, phải đến khi tìm được 2 xu của người ăn mày, chiếc chuông mới được đúc hoàn chỉnh và phải giữ lời thề đủ 9 người khiêng mới tìm ra chuông. Báu vật của làng Từ TP. Đà Nẵng, chúng tôi vượt chặng đường dài tìm về làng Bích Bắc để tìm hiểu câu...