Cuộc chiến tương lai có thể diễn ra ở đáy đại dương?
Liên minh quân sự NATO ngày càng lo lắng về sự đe dọa đối với mạng lưới cáp quang biển tối quan trọng xuyên Đại Tây Dương.
(Ảnh minh họa: Mediasat.info).
Mới đây, báo Neue Zrcher Zeitung của Thụy Sĩ tỏ ra hết sức lo ngại về tương lai của ngôi nhà chung châu Âu nếu Trung Quốc và Nga sử dụng “vũ khí khủng khiếp nhất” của họ trong cuộc chiến với NATO. Họ cho rằng, đây không phải là vũ khí hạt nhân, không phải tên lửa siêu thanh, cũng không phải là các sư đoàn xe tăng của Lực lượng vũ trang Liên bang Nga hiện có sức mạnh vượt cả sức mạnh gộp lại của tất cả các lực lượng thiết giáp NATO.
Theo báo trên, đây là loại vũ khí thầm lặng. Sẽ không có những vụ nổ, không có những đám cháy. Mọi thứ có thể diễn ra sâu dưới đáy biển. Nếu cáp ngầm xuyên Đại Tây Dương bị tổn hại thì một sự sụp đổ kinh hoàng sẽ xảy ra ở châu Âu.
Đây không phải là chủ đề mới mẻ gì. Việc liên lạc dưới nước bằng cáp quang xuyên Đại Tây Dương dễ bị tổn thương đã được thảo luận trong một thời gian dài. Bởi vì, có đến 95% lưu lượng truy cập xuyên lục địa đi qua chúng. Hơn nữa, các kênh này đáng tin cậy và hiệu quả hơn so với các kênh vệ tinh, vốn có băng thông và tốc độ truyền thông tin thấp hơn đáng kể. Hoạt động dưới nước lại hoàn toàn không phụ thuộc vào các hiện tượng khí quyển.
Mạng lưới cáp quang biển quốc tế hiện đại có tổng chiều dài 1,3 triệu km. Nó được hình thành bởi hơn 400 tuyến cáp.
Anh dường như tỏ ra lo lắng nhất về “vấn đề cáp quang”. Vào năm 2017, Tư lệnh Không quân của Lực lượng Vũ trang Anh, khi đó là Nguyên soái Sir Stuart Peach, đã cảnh báo rằng việc phá hoại các tuyến cáp ngầm sẽ “gây ra một nguy cơ mới đối với cách sống của chúng ta và có thể gây ra hậu quả thảm khốc cho nền kinh tế Anh.”
Chủ đề trên bắt đầu nóng trở lại vào năm 2021, khi Bộ trưởng Quốc phòng Anh Ben Wallace một lần nữa chú ý chú ý đến mối đe dọa có thể làm gián đoạn hoạt động của cáp ngầm. Để tránh điều này, ông Wallace đã đề xuất đóng một con tàu đặc biệt. Bộ trưởng nói: “Con tàu đó sẽ cho phép chúng tôi bảo vệ tốt hơn các tuyến cáp ngầm quan trọng, bởi chúng rất quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu và sự giao tiếp giữa các chính phủ. Ngày nay, thông tin liên lạc đang bị đe dọa bởi sự phá hoại và cuộc chiến tranh dưới nước.”
Mỹ cũng ủng hộ quan điểm đó. Ngay từ thời Ngoại trưởng Mike Pompeo dưới chính quyền cựu Tổng thống Donald Trump, Bộ Ngoại giao Mỹ đã đưa cáp ngầm vào danh sách các công nghệ có nguy cơ bị đe dọa. Ông kêu gọi cộng đồng thế giới nhìn nhận vấn đề này một cách nghiêm túc và tham gia vào chương trình bảo vệ thông tin liên lạc dưới nước nhằm tự vệ trước những hành động phá hoại.
Lời kêu gọi tương tự cũng đã được đưa ra vào tháng 6 tại hội nghị thượng đỉnh NATO ở Brussels. Cũng tại hội nghị thượng đỉnh này, một số quốc gia đã được đề nghị đầu tư vào một dự án “phòng thủ cáp” chưa được phát triển. Áp lực lớn nhất là đối với Đức, với tư cách là quốc gia giàu có nhất.
NATO cũng đã bắt đầu thực hiện các bước để bảo vệ các đường dây cáp. Cho đến nay, đó mới chỉ là các bước mang tính tổ chức. Gần đây, mới có thông báo rằng bộ chỉ huy mới của NATO ở Đại Tây Dương đã bắt đầu hoạt động, đặc biệt là bộ chỉ huy có nhiệm vụ phải bảo vệ tuyến thông tin liên lạc dưới nước.
Video đang HOT
Nhưng các dây cáp ngầm có thực sự cần phải được bảo vệ đến mức phải gióng lên hồi chuông báo động ở phương Tây? Hay đây chỉ là cái cớ để nhằm kiếm các khoản chi phí bổ sung cho các cơ cấu quan liêu của NATO, đồng thời cung cấp tiền cho tổ hợp công nghiệp-quân sự của Mỹ và châu Âu?
Cáp quang ngầm dưới biển là một cấu trúc phức tạp gồm nhiều lớp, cung cấp tốc độ truyền thông tin cao nhất cũng như có khả năng chống ẩm cao, có độ bền vững hóa học đối với môi trường biển, có độ bền, độ mềm dẻo và khả năng duy trì các đặc tính của nó khi bị biến dạng và bị kéo căng. Đường kính của cáp khoảng 10 cm.
Thông thường, một cuộn cáp trên tàu đặt cáp dài khoảng 4 km. Sau khi được đặt xuống đáy biển, cáp được kết nối với cuộn tiếp theo. Trong quá trình đặt cáp, có bộ phận giống như lưỡi cày xẻ rãnh để đặt cáp vào trong đó. Sau đó, rãnh được lấp lại bằng một bộ phận hoàn thiện.
Tuy nhiên, cáp không chỉ không “miễn nhiễm” với sự phá hoại có kế hoạch của kẻ thù, mà cả những tai nạn đơn giản. Các trường hợp đã được biết đến như: khi tàu thả neo làm hỏng nghiêm trọng dây cáp. Hơn nữa, cáp không được bảo vệ còn vì một thực tế nữa là nó chỉ nằm trên lớp đất dưới cùng của đáy biển. Trong một số trường hợp, các tuyến cáp được đặt bằng cách sử dụng các công nghệ đơn giản, rẻ tiền hơn, cáp chỉ đơn giản là được rải xuống đáy biển. Để tránh những nguyên nhân có thể làm hỏng cáp, người ta thường vẽ thêm sơ đồ các tuyến cáp ngầm dưới nước vào các hải đồ cho các tàu chiến và tàu dân sự lưu ý. Có nghĩa là, “kẻ phá hoại ác ý” không cần phải thực hiện các hoạt động trinh sát để tìm ra các tuyến cáp. Chỉ cần mở bản đồ ra là sẽ thấy mọi thứ.
Tuy nhiên, để phá hoại, tức là để cắt cáp, không hề đơn giản. Bởi vì giữa đại dương bao la, cáp được đặt ở độ sâu vài km. Trong khi đó, độ sâu lặn tối đa của các tàu ngầm thông thường (không phải vỏ titan) không vượt quá 500 mét. Tất nhiên, về mặt kỹ thuật thì việc này sẽ dễ dàng hơn ở những vùng nước nông ven biển, thế nhưng điều này lại còn nguy hiểm hơn, vì vùng biển ven bờ thường được tuần tra bởi cả máy bay chống ngầm và tàu chống ngầm.
Việc phá hoại đường cáp ngầm dưới đáy biển chỉ có thể xảy ra trong thời chiến, khi mà những tổn thất không thể tránh khỏi theo dự tính trở nên quá lớn và nhiệm vụ chiến lược đặt ra là phải giảm thiểu chúng.
Theo Neue Zrcher Zeitung, NATO có quá ít khinh hạm chống tàu ngầm để đảm bảo an toàn cho thông tin liên lạc dưới nước, không nhiều giống như trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Trên thực tế, Liên Xô vào thời điểm đó cũng đã chứng tỏ sự hoạt động mạnh mẽ hơn trong lĩnh vực hoạt động dưới nước so với bây giờ. Tuy nhiên, hoạt động khi đó lại thuộc một lĩnh vực hoàn toàn khác. Vào thời kỳ đó, dây cáp không phải là cáp quang điện tử, mà là cáp điện, với dây dẫn bằng đồng. Và cũng không giống như những thứ hiện tại, chúng phát ra sóng điện từ vào không gian, mặc dù là những sóng cực kỳ yếu. Bằng cách “đọc” các sóng này nhờ vào một thiết bị đặc biệt, người ta có thể truy cập vào thông tin, bao gồm cả các thông tin mật, mang tính chất quân sự, được chuyển từ lục địa này sang lục địa khác. Bởi vậy, trên thực tế, các khinh hạm chống ngầm trong Chiến tranh Lạnh không cần phải bảo vệ dây cáp mà việc cần hơn là phải bảo vệ các thông tin được truyền qua chúng.
Hiện nay công việc trinh sát như vậy trên cáp ngầm là không thể, vì các tuyến cáp quang ngầm dưới đáy biển hoàn toàn không để lộ ra bất cứ điều gì. Trong khi đó, con tàu đặc biệt bảo vệ thông tin liên lạc dưới nước, mà Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Anh nhắc đến, đã bắt đầu được thiết kế, sau khi người ta quyết định về chức năng của nó. Con tàu dự kiến được hoàn thành vào năm 2024. Người ta cho rằng dự án tàu catamaran USNS Impeccable của Mỹ với chiều dài 86 mét và lượng choán nước 5368 tấn sẽ được chọn làm nền tảng cho các phương án thiết kế khác nhau. Mô hình catamaran (tàu 2 thân) đã được chọn để con tàu bảo vệ cáp có thể tránh khỏi những âm mưu phá hoại trong bất kỳ điều kiện sóng to gió lớn nào.
Con tàu này sẽ được trang bị nhiều loại cảm biến có khả năng phát hiện kẻ thù ở bất kỳ độ sâu nào. Nó cũng sẽ mang theo một ăng-ten sonar. Tàu sẽ sử dụng các phương tiện được điều khiển từ xa, thu thập dữ liệu cần thiết để bảo vệ các công trình dưới nước.
Con tàu rồi cũng sẽ được hoàn thành và Anh có thể sẽ yêu cầu các thành viên NATO khác cùng chi trả cho việc đóng con tàu. Nhưng làm thế nào để nó có thể phát hiện ra những nỗ lực phá hoại mạng lưới cáp có tổng chiều dài là 1,3 triệu km, như đã đề cập ở trên?
Cường quốc biển châu Âu nhìn về châu Á
Các cường quốc châu Âu, trong đó có cường quốc biển một thời Anh quốc, đang tăng cường hiện diện quân sự tại châu Á.
Trung Quốc chắc chắn sẽ không ngồi yên nhìn các nước phương Tây liên kết với nhau.
Nhóm tàu sân bay HMS Queen Elizabeth đang thẳng tiến Biển Đông với một số tàu chiến hộ tống đã băng qua eo biển Singapore trưa 23-7 - Ảnh: hải quân Mỹ
Trong chuyến công du châu Á thăm Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam mới đây, Bộ trưởng Quốc phòng Anh Ben Wallace đã tái khẳng định cam kết của Anh đối với khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Vừa hợp tác vừa cạnh tranh
Việc triển khai nhóm tác chiến hạm đội tàu sân bay HMS Queen Elizabeth của Anh đến tuần tra và tập trận trên các tuyến đường hàng hải huyết mạch ở Biển Đông thể hiện được cả 3 đặc trưng trong chiến lược đối ngoại quốc phòng mới của nước Anh hậu Brexit: (i) quyết đoán, (ii) quy mô và (iii) đa liên kết.
Hải quân Hoàng gia Anh chưa từng gián đoạn hiện diện ở Đông Á (thông qua việc triển khai luân phiên các tàu HMS Montrose, Argyll và Enterprise), nhưng quy mô của việc triển khai hạm đội HMS Queen Elizabeth vẫn được đánh giá là vượt trội hơn cả.
Xoay quanh việc vì sao nước Anh chọn châu Á làm "trọng tâm tiếp cận" mới, có ba nguyên nhân chính được ông Ben Wallace tuyên bố vào tháng 4-2021: (i) kỷ niệm 50 năm thành lập Hiệp ước Phòng thủ ngũ cường (FPDA) ở khu vực, (ii) đảm bảo các giá trị chuẩn mực của luật pháp quốc tế thông qua vai trò cường quốc toàn cầu của Anh và (iii) kiềm chế sự gia tăng ảnh hưởng quân sự và các hoạt động đơn phương áp đặt giá trị của Trung Quốc ở khu vực.
Tuy nhiên, trên thực tế nước Anh cũng đang trong quá trình cạnh tranh ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương với Pháp, Đức nói riêng và cả Liên minh châu Âu nói chung giai đoạn hậu Brexit.
Sự công bố về chiến lược và cách tiếp cận khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương một cách đơn lẻ của mỗi bên châu Âu, cũng như việc Pháp thành công trong thiết lập tam giác chiến lược Pháp - Ấn - Úc (sắp tới có thể là Pháp - Mỹ - Nhật) và lực lượng tuần duyên chung với các nước Nam Thái Bình Dương (có cả Úc và New Zealand) khiến cho Anh phải đẩy nhanh cả 3 hướng triển khai chiến lược ở châu Á.
Xu hướng chạy đua ảnh hưởng giữa Anh - Pháp ở khu vực hiện vẫn đang được nằm trong thế "vừa hợp tác vừa cạnh tranh", trong bối cảnh các hạm đội của hai nước vẫn có kế hoạch diễn tập chung ở Địa Trung Hải và sắp tới là Biển Tây Philippines.
Theo lộ trình được Huân tước Annabel Goldie - quốc vụ khanh Bộ Quốc phòng Anh - đưa ra, sự hiện diện dài hạn của hải quân Anh ở khu vực sẽ tăng cường một cách tiệm tiến chứ không ồ ạt như bước khởi đầu, với việc duy trì các tàu tuần duyên vào năm 2021, các đơn vị lính thủy đánh bộ từ năm 2023 và một tàu khinh hạm cho đến cuối thập niên này.
Cách tiếp cận này cho thấy mặc dù Anh có năng lực tài chính mạnh, Anh vẫn muốn triển khai tiệm tiến để giảm thiểu tối đa các chi phí hậu cần hàng hải, đồng thời tạo liên kết với các đối tác và đồng minh để khắc phục các điểm yếu về kỹ thuật quân sự (như nhờ Mỹ cung cấp thêm máy bay F-35B do hiện Anh chưa trang bị đủ số lượng cho hạm đội HMS Queen Elizabeth).
Trung Quốc có để yên?
Trung Quốc ngay từ tháng 1-2021 đã lên án việc triển khai hạm đội Anh ở khu vực và chắc chắn sẽ đưa ra những phản ứng quyết liệt và tăng cường cấp độ từ ngoại giao đến quân sự trong thời gian tới.
Mặc dù phía Anh đã phát đi các tín hiệu cho thấy sự ôn hòa trong đợt triển khai, Trung Quốc chắc chắn sẽ bỏ qua các chỉ dấu này và đẩy mạnh các hoạt động tiếp cận, do thám cũng như có những động thái phản ứng quyết liệt để tăng cường hiện diện quân sự đối trọng với hạm đội Anh nói riêng và tổ hợp lực lượng các cường quốc nói chung.
Cần nói thêm là Trung Quốc vẫn giữ tâm thế lo ngại về sự hiện diện cùng lúc từ đông đảo các cường quốc bên ngoài, xuất phát từ việc quốc gia này bị các nước phương Tây biến thành nước nửa thuộc địa suốt một thế kỷ.
Sự hiện diện của Anh trong tập trận đa phương 8 nước (Mỹ, Anh, Hà Lan, Úc, Pháp, Nhật Bản, New Zealand và Hàn Quốc) vào tháng 8 tới tại Biển Philippines gợi lại đúng khái niệm "Bát quốc liên quân" can thiệp Trung Quốc hồi đầu thế kỷ 20, dù thành phần tham dự hoàn toàn khác nhau.
ASEAN, với chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc phòng với các nước lớn, chắc chắn sẽ có cách tiếp cận tích cực với tín hiệu tăng cường hiện diện của Anh trong khu vực, đặc biệt khi một số thành viên trong khối ASEAN vẫn là thành viên FPDA cùng Anh. Nhiều quốc gia Đông Nam Á đang muốn đẩy nhanh các hoạt động đối ngoại quốc phòng ở Biển Đông để đối trọng với các hoạt động quân sự tăng cường từ Trung Quốc gần đây.
Việt Nam quan trọng với Anh
Có một số thông điệp được thể hiện trong chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Anh Ben Wallace hôm 22-7. Thứ nhất, nước Anh muốn tăng cường hợp tác an ninh với Việt Nam, mở rộng khả năng tiếp cận cảng biển Việt Nam cho các tàu hải quân Anh về sau. Đây là nhu cầu cấp thiết lúc này, do một số nước trong khu vực đang bùng phát dịch COVID-19 nên hạn chế cảng biển.
Thứ hai, ông Wallace muốn có được sự ủng hộ của Việt Nam trong kế hoạch tham gia Hội nghị bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM ) mà Anh chưa có suất thành viên - một nhu cầu cấp thiết cho việc tăng cường hiện diện của Anh lúc này.
Thạc sĩ LỤC MINH TUẤN (nghiên cứu viên Trung tâm nghiên cứu quốc tế - SCIS, Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM)
Động lực thúc đẩy Anh điều chiến hạm trực chiến ở châu Á Việc điều hai chiến hạm thường trực ở châu Á sẽ giúp Anh muốn mở rộng ảnh hưởng và san sẻ gánh nặng "đối phó Trung Quốc" với Mỹ. Bộ trưởng Quốc phòng Anh Ben Wallace ngày 20/7 cho biết nước này sẽ điều hai chiến hạm tới trực chiến tại các vùng biển châu Á. Các chiến hạm Anh dự kiến hỗ...