Cú phản đòn phi thường của Mỹ sau trận Trân châu cảng
Vào thời điểm phát xít Nhật mạnh mẽ nhất, Trung Tá Mỹ James Doolittle bất ngờ dẫn đầu phi đội 16 chiếc B-25 Mitchell ném bom Tokyo, khiến cho Nhật hoàng Hirohito đứng ngồi không yên.
80 phi công cảm tử tham gia chiến dịch Doolittle.
Những trận đột kích với số lượng ít ỏi lính đặc nhiệm hay lực lượng không quân tinh nhuệ thường diễn ra điều kiện gần như bất khả thi, với xác suất rủi ro cực cao, thường khiến nhiều người phải trả giá bằng mạng sống. Mời bạn đọc theo dõi loạt bài về những trận đột kích lớn như vậy trên thế giới.
Trong giai đoạn đầu tiên sau khi phát xít Nhật tấn công Trân châu cảng, nước Mỹ rơi vào trạng thái bị động. Bên cạnh việc khắc phục những thiệt hại, Mỹ bắt đầu thành lập một lực lượng đặc biệt nhưng quân đội cần làm gì đó giúp tăng nhuệ khí chiến đấu của binh sĩ.
Đề xuất sử dụng máy bay không kích lãnh thổ Nhật Bản ban đầu được cho là không khả thi bởi khi đó, Mỹ không có máy bay ném bom tầm xa và nếu đưa tàu sân bay áp sát Nhật Bản cũng hết sức nguy hiểm. Các máy bay ném bom tầm trung B-25 Mitchell có thể được cải tiến để cất cánh trên tàu sân bay, oanh tạc Nhật Bản nhưng sau đó buộc phải hạ cánh ở một nơi nào đó tại châu Á vì không thể trở về tàu sân bay hạ cánh.
Một trong số những phi công nổi tiếng nhất của Mỹ trong Thế chiến II, Trung Tá Jimmy Doolittle được lựa chọn là người chỉ huy trận đột kích vào nước Nhật. 80 người gan dạ trên 16 máy bay ném bom B-25 Mitchell đều là những phi công tình nguyện, thực hiện sứ mệnh được coi như cảm tử.
Tàu sân bay USS Hornet.
Gần 4 tháng sau trận Trân châu cảng, 16 máy bay B-25 Mitchell được đưa lên tàu sân bay Hornet. Tàu sân bay Hornet với sự hộ tống của bốn tàu khu trục, hai tàu tuần dương và một tàu chở dầu đi qua gầm cầu Cổng Vàng và hướng ra đại dương. Số tàu này hợp quân với tám tàu đến từ Trân châu cảng, dưới sự chỉ huy của tàu sân bay Enterprise để hướng đến Nhật Bản.
Rắc rối đầu tiên xảy đến trong cuộc đột kích Doolittle là việc người Mỹ không tính đến sự hiện diện của một tàu đánh cá của Nhật Bản thực hiện nhiệm vụ cảnh giới, cách bờ biển 1.200 km. Tàu sân bay Hornet lo ngại rằng tàu Nhật Bản đã phát hiện ra tàu sân bay trọng tải 20.000 tấn của Mỹ do hai tàu chỉ cách nhau 10 km. Do đó, các máy bay B-25 Mitchell phải cất cánh sớm, cách địa điểm ban đầu gần 300 km.
Trung tá Doolittle xuất phát lúc 8 giờ 20 sáng và theo sau đó 1 giờ là 15 máy bay B-25. Mỗi chiếc xuất phát nhau từ 3-4 phút từ. Các máy bay sau khi lấy được độ cao liền lượn vòng và bay thấp phía trên khoang lái của tàu sân bay để định vị và hướng về phía Nhật Bản.
Chiếc máy bay số 16 do nằm ở mãi tận phía sau nên bị rung mạnh bởi lực đẩy ra phía sau khi chiếc máy bay số 15 cất cánh. Các thủy thủ đã phải chạy đến cột chặt máy bay, không cho nó rơi xuống biển.
Máy bay ném bom tầm trung B-25 cất cánh trong chiến dịch Doolittle.
Video đang HOT
Không hiểu vì một nguyên nhân nào đó, xuất hiện lỗ hổng rộng chừng hơn 30 cm ở phần mũi máy bay. Điều này khiến máy bay số 16 giảm tốc độ và tiêu thụ nhiều nhiên liệu hơn.
Nhưng không còn thời gian để sửa chữa, các phi công lên đường làm nhiệm vụ ngay sau đó. 16 máy bay sau khi cất cánh không thể liên lạc với nhau, họ hướng về phía Nhật Bản.
10 chiếc nhận nhiệm vụ không kích Tokyo, số còn lại tấn công mục tiêu ở các trung tâm công nghiệp Nhật Bản bao gồm Yokohama, Kobe, Nagoya và căn cứ hải quân Yokosuka. Nhiều người dân Nhật Bản khi thấy máy bay Mỹ còn giơ tay vẫy, có lẽ bởi phù hiệu nhầm lẫn phù hiệu của lực lượng lục quân Mỹ với lá cờ Nhật Bản.
Đợt oanh tạc diễn ra chớp nhoáng, khiến cho phía Nhật Bản không kịp triển khai đội hình phòng thủ. Trong số các máy bay tấn công, chỉ có chiếc số 10 bị trúng đạn, với một lỗ nhỏ ở phần thân.
Sau khi ném hết số bom mang theo, tất cả 16 máy bay B-25 nhanh chóng rút khỏi lãnh thổ Nhật Bản. Đây là lần duy nhất các máy bay ném bom Mỹ xuất hiện trên bầu trời Nhật Bản mãi cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Máy bay B-25 chờ tín hiệu cất cánh ngày 18.4.1942.
Ra khỏi không phận Nhật Bản, các máy bay B-25 bị thiếu nhiên liệu trầm trọng. May mắn nhờ bay xuôi theo chiều gió mà tất cả 16 chiếc B-25 đều đến được bờ biển Trung Quốc. Đến nửa đêm, các phi công nhận lệnh nhảy dù.
Kỹ sư sửa chữa kiêm pháo thủ của máy bay số 3 Leland Faktor là người đầu tiên thiệt mạng khi nhảy dù xuống đất. William Dieter và Donald Fitzmaurice, tổ lái trên máy bay số 6 bị chết đuối ngoài khơi bờ Trung Quốc. 4 trong số các thành viên của máy bay số 7 bị thương nặng, còn phi công Lawson bị gãy chân.
Đa số các phi công hạ cánh an toàn đều may mắn được người dân Trung Quốc phát hiện, cứu giúp, đưa đến dãy núi không có quân Nhật kiểm soát. Sau đó, họ gửi thư thông báo cho Washington là cuộc đột kích Doolittle đã thành công.
Số phận của phi công trên máy bay số 8, số 6 và số 16 không may mắn như vậy. Máy bay số 8 vì không đủ nhiên liệu đã chuyển hướng hạ cánh ở Vladivostok, Nga. Thành viên tổ bay bị giam ở Nga trong hơn một năm trước khi chạy trốn vào vùng núi rồi tìm đường sang Iran vào cuối tháng 5/1943. 8 thành viên của máy bay số 6 và 16 bị quân Nhật bắt được.
Trung tá Robert Hite bị phát xít Nhật bắt làm tù binh.
3 người bị xử tử trong tháng 10.1942 sau một phiên xử lấy lệ. Một người chết vì suy dinh dưỡng trong tù, 4 người khác tiếp tục bị tra tấn, đối mặt với bệnh tật, biệt giam cho đến tận ngày họ được giải cứu vào tháng 8.1945. Cuộc đột kích đầy bất ngờ vào Tokyo đã giành thắng lợi rực rỡ, tuy không phá hủy mục tiêu nhưng nó đã có tác động quan trọng đến nhuệ khí chiến đấu của binh sĩ Mỹ.
Bởi cuộc tấn công này mà không quân Nhật đã phải điều động 4 phi đội máy bay chiến đấu từ ngoài mặt trận về chính quốc để tham gia phòng vệ trên không. Đột kích Doolittle cũng thúc đẩy Đô đốc Nhật Bản Isoroku Yamamoto quyết định tấn công đảo Midway, dẫn đến thất bại thảm hại của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong trận Midway vào tháng 6.1942.
Trở về quê hương, James Doolittle nhận Huân chương Danh dự và được thăng hàm vượt hai cấp, trở thành Chuẩn tướng.
Theo Đăng Nguyễn (Dân Việt)
Trận đánh vĩ đại của 600 đặc nhiệm Anh vào cảng biển Đức
Cuộc cuộc tấn công cảng St. Nazaire luôn được biết đến như chiến dịch tập kích vĩ đại nhất trong Thế chiến II của đặc nhiệm Anh, bởi mục tiêu phá hủy cảng biển quan trọng của phát xít Đức chỉ với lực lượng hạn chế.
HMS Cambeltown khi lao vào ụ nổi tại cảng St. Nazaire.
Những trận đột kích với số lượng ít ỏi lính đặc nhiệm hay lực lượng không quân tinh nhuệ thường diễn ra điều kiện gần như bất khả thi, với xác suất rủi ro cực cao, thường khiến nhiều người phải trả giá bằng mạng sống. Mời bạn đọc theo dõi loạt bài về những trận đột kích lớn như vậy trên thế giới.
Kể từ khi bắt đầu Thế Chiến II, Hải quân phát xít Đức đã gây ra ác mộng với các tàu thuyền thương mại đi qua Đại Tây Dương. Sau khi nước Pháp sụp đổ, phát xít Đức nắm trong tay hàng loạt cảng biển ở Đại Tây Dương để phục vụ mục đích quân sự, chống lại lực lượng đồng minh, trong đó có cảng chiến lược St. Nazaire.
Người Anh muốn phá hủy cảng hậu cần quan trọng này bằng cách tổ chức cuộc tập kích đường biển hết sức tạo bạo năm 1942. Hơn 600 biệt kích và binh sĩ Hải quân Anh phải đối đầu với lực lượng phòng vệ hùng hậu, bao gồm 5.000 lính phát xít Đức ở cảng St. Nazaire.
Theo kế hoạch, 265 lính đặc nhiệm Anh thuộc Tiểu đoàn đặc nhiệm số 2 cùng 346 lính hải quân chất đầy thuốc nổ lên tàu khu trục hoán cải Campbeltown. HMS Campbeltown có nhiệm vụ lao thẳng vào ụ nổi ở St. Nazaire và kích nổ. Biệt kích Anh lợi dụng tình hình hỗn loạn, đổ bộ và phá hủy các mục tiêu còn lại tại cảng một cách chớp nhoáng trước khi rút quân bằng các xuồng máy vũ trang và 4 tàu ngư lôi.
HMS Campbeltown đang được hoán cải để phục vụ mục đích tấn công.
Ngày 26.3.1942, nhóm đặc nhiệm rời Anh và tiếp cận mục tiêu vào đêm ngày 28.3. HMS Campbeltown lặng lẽ giương cờ hải quân Đức tiến vào cảng St. Nazaire. Tuy nhiên, kế hoạch đánh bom của Hải quân Hoàng gia Anh bại lộ khi chỉ còn cách mục tiêu 8 phút di chuyển, do bị lính Đức chiếu đèn pha kiểm tra.
Giao tranh diễn ra ngay lập tức giữa đặc nhiệm Anh trên tàu Campbeltown và lính phòng thủ bờ biển Đức. Thủy thủ trên tàu Campbeltown thay cờ Hải quân Anh trong khi lái tàu trúng đạn hy sinh, người thay thế bị thương nặng còn những người khác bị lóa mắt. Mãi đến 1h34 phút sáng, tàu khu trục mới xác định được vị trí của ụ tàu Normandie và lao thẳng vào mục tiêu.
Ngay khi đổ bộ lên bờ, đặc nhiệm Anh vấp phải hỏa lực bắn xối xả của phát xít Đức. Dù chịu nhiều thương vong, nhưng những người lính anh dũng này này cuối cũng hoàn thành nhiệm vụ khi phá hủy cơ sở hạ tầng và trang thiết bị máy móc tại cảng.
Nhóm đặc nhiệm điều khiển 14 xuồng máy vũ trang và 4 tàu ngư lôi lại không may mắn như vậy. Trong khi tìm cách tiếp cận bờ, đa số đã bị tiêu diệt bởi đạn pháo phát xít Đức. 12 chiếc bị chìm khi chưa kịp đến cảng. Những người chết cháy ngay trên biển tạo nên cảnh tượng đầy bi tráng.
Binh sĩ Anh bị bắt làm tù binh.
Trung tá Newman, chỉ huy lực lượng đặc nhiệm trên bờ và chỉ huy Ryder của hải quân Anh nhận thấy việc rút quân bằng đường biển đã hoàn toàn phá sản. Ryder ra lệnh các tàu còn lại rời cảng, hướng ra biển. Trong khi Newman ra mệnh lệnh: Tìm mọi cách để trở về Anh, chiến đấu đến cùng cho đến khi hết sạch đạn và không được đầu hàng.
Như vậy, họ buộc phải tiến sâu vào thành phố và tìm cách thoát thân từ đất liền. Đáng tiếc rằng, những người lính đặc nhiệm Anh nhanh chóng bị phát xít Đức bao vây. Họ chiến đấu đến viên đạn cuối cùng trước khi buộc phải đầu hàng vì không còn lựa chọn nào khác. Chỉ có 5 biệt kích thoát khỏi vòng vây và chạy trốn xuyên nước Pháp, qua Tây Ban Nha, đến vùng lãnh thổ Gibraltar thuộc Anh và từ đây mới có thể trở về Anh.
Phát xít Đức nhanh chóng giành lai quyền kiểm soát cảng St. Nazaire, bắt giữ 215 lính biệt kích và binh sĩ Hải quân Hoàng gia Anh. Không hề biết rằng tàu Campbeltown được chất đầy thuốc nổ, sĩ quan Đức còn giễu cợt Trung tá Sam Beattie, chỉ huy tàu Cambeltown, cho rằng thiệt hại do cú đâm chỉ mất một tuần là khắc phục xong.
Cảng St. Nazaire đã bị vô hiệu hóa hoàn toàn trong suốt quãng thời gian còn lại của Thế Chiến II.
Viên sĩ quan Đức vừa dứt lời thì tàu Campbeltown phát nổ, khiến 360 người thiệt mạng và phá hủy nặng nề cảng St. Nazaire, khiến nó không còn có thể hoạt động trở lại được trong thời gian còn lại của cuộc chiến.
Phía Anh trả giá đắt cho chiến thắng này. Trong số 600 người tham gia chiến dịch, chỉ có 227 người trở về Anh. Bên cạnh những người bị bắt làm tù binh, 169 biệt kích và binh sí Hải quân Anh đã thiệt mạng.
Cuộc đột kích đã khiến Hitler hết sức tức giận, cùng với các cuộc tấn công khác đã khiến phát xít Đức buộc phải dàn trải quân dọc theo bờ biển để tăng cường phòng thủ trước các cuộc tấn công hoặc xâm lược trong tương lai.
Cảng St. Nazaire bị phá hủy khiến Đức bị mất một địa điểm sửa chữa quan trọng cho các tàu chiến lớn ở Đại Tây Dương. Do bản chất táo bạo của chiến dịch và cái giá phải trả là rất lớn, đây được coi là chiến dịch tập kích vĩ đại nhất trong Thế chiến II của đặc nhiệm Anh.
_____________
Đón đọc bài tiếp theo vào 10h ngày 18.9: Vụ Mỹ táo bạo đột kích Nhật Bản sau trận Trân châu cảng
Theo Đăng Nguyễn (Dân Việt)
Ông Duterte đòi 'quăng cướp biển cho cá mập ăn' Chỉ vài ngày sau khi đòi "ăn tươi nuốt sống" nhóm khủng bố Au Sayyaf, nhà lãnh đạo Philippines tiếp tục phát ngôn gây sốc khi cảnh báo sẽ quăng cướp biển "cho cá mập ăn". Trong chuyến công du đến Jakarta (Indonesia), ông Duterte đã tuyên bố các lực lượng của Indonesia được phép đi vào vùng biển Philippines để đuổi bắt...