CSGT có quyền truy đuổi người vi phạm sang tỉnh khác không?
“Một thanh niên khi phóng xe máy chạy trốn cảnh sát đã va quệt khiến tôi bị xây xát nhẹ. Nhân việc này, tôi muốn hỏi trong trường hợp nào cảnh sát truy đuổi người vi phạm luật giao thông? Nếu có, khi người vi phạm giao thông sang tỉnh khác thì CSGT còn quyền truy đuổi không? Tôi băn khoăn việc truy đuổi có thể gây nguy hiểm cho người xung quanh nhưng nếu không thì một số người vi phạm lại coi thường pháp luật”.
CSGT có quyền truy đuổi người vi phạm sang tỉnh khác không?
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi. Với thắc mắc của bạn, xin được đưa ra quan điểm tư vấn như sau:
CSGT có quyền truy đuổi người vi phạm giao thông hay không?
Điểm a, Khoản 1, Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật.
Khoản 1 Điều 87 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định: “Cảnh sát giao thông đường bộ thực hiện việc tuần tra, kiểm soát để kiểm soát người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ; xử lý vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ đối với người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình; phối hợp với cơ quan quản lý đường bộ phát hiện, ngăn chặn hành vi vi phạm quy định bảo vệ công trình đường bộ và hành lang an toàn đường bộ…”.
Bên cạnh đó, theo Điều 5 Thông tư 65/2012/TT-BCA ngày 30.10.2012, cán bộ thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát giao thông đường bộ có các quyền sau:
“1. Được dừng các phương tiện đang tham gia giao thông đường bộ; kiểm soát phương tiện, giấy tờ của phương tiện; kiểm soát người và giấy tờ của người điều khiển phương tiện, giấy tờ tùy thân của người trên phương tiện đang kiểm soát, việc thực hiện các quy định về hoạt động vận tải đường bộ theo quy định pháp luật.
2. Xử lý các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và an ninh, trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật.
3. Được áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm cho việc xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật; tạm giữ giấy phép lái xe, giấy chứng nhận đăng ký xe và giấy tờ khác có liên quan đến phương tiện, người điều khiển phương tiện hoặc những người trên phương tiện khi có hành vi vi phạm pháp luật, giấy tờ liên quan đến hoạt động vận tải để bảo đảm cho việc thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
Video đang HOT
4. Được yêu cầu cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân phối hợp, hỗ trợ giải quyết tai nạn giao thông; ùn tắc, cản trở giao thông hoặc trường hợp khác gây mất trật tự, an toàn giao thông.
5. Được sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ theo quy định của pháp luật.
6. Được trưng dụng các loại phương tiện giao thông; phương tiện thông tin liên lạc; các phương tiện, thiết bị kỹ thuật khác của cơ quan, tổ chức, cá nhân và người điều khiển, sử dụng các phương tiện, thiết bị đó theo quy định của pháp luật.
7. Tạm thời đình chỉ đi lại ở một số đoạn đường nhất định, phân lại luồng, phân lại tuyến và nơi tạm dừng phương tiện, đỗ phương tiện khi có ách tắc giao thông hoặc có yêu cầu cần thiết khác về bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
8. Thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của pháp luật”.
Theo Điều 10 Thông tư 45/2012/TT-BCA ngày 27.7.2012 quy định về biển hiệu và Giấy chứng nhận Cảnh sát tuần tra, kiểm soát giao thông đường bộ, cảnh sát giao thông phải mang theo Giấy chứng nhận khi làm nhiệm vụ và xuất trình khi có yêu cầu, phải đeo biển hiệu (thẻ xanh)…
Trường hợp người lái xe vi phạm không có dấu hiệu tội phạm
Căn cứ Điều 20 Thông tư số 66/2012/TT-BCA ngày 30.10.2012 của Bộ Công an quy định về Quy trình tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm hành chính của Cảnh sát giao thông đường bộ, đối với trường hợp người lái xe vi phạm không chấp hành hiệu lệnh dừng xe, bỏ chạy, thì thực hiện như sau:
- Tổ tuần tra, kiểm soát giao thông nhanh chóng ghi nhận các đặc điểm của xe như biểm kiểm soát, màu sơn, nhãn hiệu, loại xe; đặc điểm của người lái xe, sau đó thông báo cho các tổ tuần tra, kiểm soát giao thông liền kề trên tuyến, các lực lượng khác để phối hợp, hỗ trợ ngăn chặn.
- Tổ tuần tra, kiểm soát giao thông liền kề trên tuyến khi nhận được yêu cầu phối hợp, hỗ trợ phải triển khai ngay lực lượng ngăn chặn, dừng phương tiện của người vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông để kiểm soát, xử lý theo quy định của pháp luật.
Trường hợp người lái xe vi phạm có dấu hiệu tội phạm
Tại Khoản 1, Điều 3 Bộ luật Hình sự năm 1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định, mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng quy định của pháp luật.
Khoản 1, Điều 82 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc UBND nơi gần nhất…”.
Như vậy, căn cứ các quy định về quyền hạn, nhiệm vụ của cảnh sát giao thông vừa trích dẫn ở trên, pháp luật hiện chưa có quy định nào cho phép cảnh sát truy đuổi người vi phạm mà chỉ cho phép cảnh sát, Thanh tra giao thông dừng xe của người điều khiển vi phạm lại một cách an toàn.
Tóm lại, khi phát hiện người vi phạm có lỗi hành chính, chưa cấu thành tội phạm hình sự (như không đội mũ bảo hiểm, đi vào đường ngược chiều, vượt đèn đỏ…) nhưng không chịu tuân thủ hiệu lệnh, cảnh sát có thể ghi lại biển số xe của người vi phạm rồi thông báo cho các chốt kiểm tra liền kề hoặc các tổ tuần tra để kịp thời ngăn chặn hoặc chụp ảnh, ghi hình để làm bằng chứng xử lý sau chứ không cần thiết phải truy đuổi.
CSGT có được quyền truy đuổi người vi phạm sang tỉnh khác?
Theo Luật Giao thông đường bộ và Thông tư 65 năm 2012 của Bộ Công an thì CSGT được quyền dừng các phương tiện đang tham gia giao thông đường bộ, đồng thời có nghĩa vụ bảo đảm trật tự, an toàn giao thông thuộc phạm vi địa bàn tuần tra, kiểm soát; phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Nghị định 208/2013/NĐ-CP quy định: “Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan, đơn vị công an, quân đội, kiểm lâm, hải quan và các cơ quan, tổ chức, lực lượng thực thi công vụ khác có trách nhiệm tổ chức tuần tra, kiểm soát trên phạm vi lĩnh vực, tuyến, địa bàn thuộc thẩm quyền quản lý. Khi tiến hành hoạt động tuần tra, kiểm soát, lực lượng thi hành công vụ phải sử dụng đúng trang phục, phương tiện được trang bị, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; tuân thủ trình tự, thủ tục, kế hoạch, quy trình công tác đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt”.
Với quy định như vậy thì địa hạt tỉnh này hay tỉnh khác chỉ áp dụng với CSGT thuộc công an cấp tỉnh, còn đối với CSGT trực thuộc cấp bộ thì không có giới hạn địa hạt là cấp tỉnh hay huyện mà giới hạn bởi lĩnh vực, tuyến, địa bàn thuộc thẩm quyền quản lý.
Theo quan điểm của tôi thì chỉ những trường hợp người điều khiển phương tiện có dấu hiệu phạm tội nhưng khi bị CSGT yêu cầu dừng xe nhưng đối tượng bỏ chạy thì CSGT có quyền truy đuổi. Quá trình đuổi bắt phải thận trọng, linh hoạt, bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người bị truy đuổi cũng như những người tham gia giao thông khác. Và một khi đối tượng vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì việc truy đuổi vượt quá giới hạn địa bàn thuộc thẩm quyền quản lý là không sai.
Hy vọng rằng sự tư vấn sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn.
Luật gia Đồng Xuân Thuận
Theo Luật gia Đồng Xuân Thuận (ĐSPL)
Trưng dụng tài sản: Nỗi lo CSGT lạm quyền
Phải đến ngày 15.2 mới có hiệu lực nhưng Thông tư 01/2016 (quy định nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung tuần tra, kiểm soát giao thông đường bộ) của Bộ Công an đang "gây bão" trong dư luận về quyền hạn của CSGT.
Đó là CSGT "được trưng dụng các loại phương tiện giao thông; phương tiện thông tin liên lạc; các phương tiện, thiết bị kỹ thuật khác của cơ quan, tổ chức, cá nhân... theo quy định của pháp luật" (khoản 6 Điều 5).
Ở thời công nghệ số, quyền sở hữu, sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc hay các thiết bị khác không còn đơn thuần là quyền về tài sản và trong nhiều trường hợp nếu có hư hỏng, mất mát thì không phải có tiền sửa chữa hoặc mua cái mới là khôi phục được. Đơn cử, chiếc máy tính hay điện thoại di động ngoài các chức năng kỹ thuật còn là nơi chứa đựng các dữ liệu, thông tin cá nhân... Vì thế nhiều thắc mắc đã được đặt ra từ quyền hạn nêu trên như: CSGT nào được ra lệnh trưng dụng, tình huống nào thì dân phải chấp hành, việc trưng dụng được thực hiện như thế nào, việc hoàn trả và bồi thường đầy đủ ra sao...?
Theo Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản (TMTDTS) 2008 thì trưng dụng tài sản là việc Nhà nước sử dụng có thời hạn tài sản của tổ chức, cá nhân... thông qua quyết định hành chính trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia". Luật này nhấn mạnh trưng dụng tài sản chỉ được thực hiện khi Nhà nước có nhu cầu sử dụng tài sản mà các biện pháp huy động khác không thực hiện được và phải thuộc năm trường hợp quy định. Gồm có: Khi đất nước trong tình trạng chiến tranh hoặc trong tình trạng khẩn cấp về quốc phòng; khi an ninh quốc gia có nguy cơ bị đe dọa; khi mục tiêu quan trọng về an ninh quốc gia có khả năng bị xâm phạm hoặc cần được tăng cường bảo vệ...
Về hình thức, quyết định trưng dụng tài sản phải được thể hiện bằng văn bản. Trường hợp đặc biệt thì được trưng dụng bằng lời nói nhưng phải có giấy xác nhận. Về quyền hạn thì phải là bộ trưởng hoặc chủ tịch UBND cấp tỉnh và những người này không được phân cấp thẩm quyền quyết định trưng dụng tài sản.
Đáng lưu ý là từ những ràng buộc khắt khe đó mà Luật TMTDTS đã bãi bỏ quyền trưng dụng tài sản của lực lượng công an. Theo Luật Công an nhân dân (CAND) 2005 thì "trong trường hợp cấp thiết công an được trưng dụng phương tiện giao thông, thông tin... của cơ quan, cá nhân". Song Luật TMTDTS đã thay cụm từ "trưng dụng" trên bằng cụm từ "huy động". Điều này có thể hiểu là từ khi Luật TMTDTS có hiệu lực thì công an chỉ được quyền huy động tài sản của dân.
Điều chỉnh này được kéo dài đến sáu năm thì lại có sự thay đổi mà đến giờ nhiều người vẫn không rõ lý do. Cụ thể, với Luật CAND 2014 thì công an có đồng thời hai quyền là trưng dụng và huy động. Nguyên văn khoản 15 Điều 15 luật này là: CAND được "huy động, trưng dụng theo quy định của pháp luật phương tiện thông tin, phương tiện giao thông, phương tiện khác... trong trường hợp cấp bách để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội hoặc để ngăn chặn hậu quả thiệt hại cho xã hội đang xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra".
Tính ra, Luật CAND hiện hành có sự "cơi nới" rất lớn so với Luật TMTDTS về điều kiện trưng dụng tài sản. Thế nhưng các nội dung quan trọng khác như trường hợp nào được xem là cấp bách, tình huống nào được xác định là để ngăn chặn hậu quả thiệt hại cho xã hội, rồi thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục, thời hạn trưng dụng... thì luật này lại không nêu. Và đến thời điểm này thì cũng chưa có nghị định hướng dẫn việc trưng dụng tài sản. Vậy căn cứ pháp lý nào để bộ trưởng Bộ Công an cho phép CSGT khi tuần tra, kiểm soát giao thông được quyền trưng dụng tài sản trong khi theo Luật TMTDTS thì chỉ có bộ trưởng Bộ Công an hoặc chủ tịch tỉnh mới có quyền này?
Nhân đây cũng xin nhắc lại: Ngay cả khi đã bị Luật TMTDTS 2008 bãi bỏ thì Bộ Công an vẫn không cập nhật và tiếp tục dựa vào Luật CAND 2005 để ban hành Thông tư 65/2012 cho phép CSGT được trưng dụng tài sản. Giờ bộ này cho ra đời Thông tư 01/2016 nhắc lại y sì Thông tư 65/2012 và cũng không cập nhật đầy đủ quy định mới của Luật CAND 2014. Cách ban hành luật nhưng lại không đúng luật như thế nếu không lạm quyền thì là gì?
Theo Thu Tâm (Pháp luật TP.HCM)
CSGT truy đuổi, bắt gọn tên cướp dùng dao khống chế người đi đường Phát hiện hai người dùng dao khống chế, cướp điện thoại người đi đường, tổ tuần tra CSGT lập tức truy đuổi và bắt gọn một nghi phạm. Trường - nghi phạm dùng dao cướp tài sản người đi đường - bị CSGT bắt giữ - Ảnh: PC67 cung cấp Sáng 24.9, Phòng CSGT đường bộ - đường sắt (PC67) Công an TP.HCM,...