“Cổng trời” đang đói
Đứng ở trung tâm xã biên giới Mường Ải của huyện miền núi Kỳ Sơn (Nghệ An) ta như đứng ở “ cổng trời” – nó đẹp và thơ mộng đến mê hồn. Thế nhưng, con người sống ở đó lại rất đói, rất nghèo. Tôi đến đây và chứng kiến nghịch cảnh đó mới biết cái đói đã kéo dài ở đây hết năm này sang năm khác.
Chuyện nhà trưởng bản
Cái đói của gần 10 năm trước, nay lại ám ảnh, hiện hữu ở Nha Nang (xã Mường Ải, Kỳ Sơn, Nghệ An). Người dân bản này và vùng lân cận đang đối diện với đói gay gắt, khốc liệt. Chuyện này diễn ra trước hết ngay tại nhà đại gia đình ông trưởng bản như một điển hình…
Khe Nậm Típ ở Nha Nang trơ đá. Nước đục ngàu nhưng cạn. Miếng ăn dễ kiếm bao đời nay của dân bản Khơ Mú (bản Nha Nang 100% người dân tộc Khơ Mú) là con ốc, con cá… nay cũng không còn. Phò Bá Ngầm 15 tuổi nhưng nhỏ thó đứng bên khe Nậm Típ nói: “Không có ốc, có cá mô. Chịu thôi. Nước giết cá rồi”. Hỏi nhà trưởng bản Nha Nang, Ngầm nhanh nhảu: “Bản ta mà”. Rồi cậu nhảy tót lên xe chúng tôi dẫn đường.
Ông Xeo Phò Ngũ, trưởng bản Nha Nang thấy Ngầm dẫn khách lạ vào bản thì mắt nhìn chăm chú. Sau cái bắt tay thật chặt của người miền núi, câu chuyện về cái đói ở bản và trước hết là tại nhà ông Ngũ hiện hữu. “Bản này đói hết. Từ Tết đến nay đói quá. Không chỉ có nhà ta không có gạo mà ăn mà dân bản cũng không có”, trưởng bản buông lời.
Để hình tượng hóa ý mình, trưởng bản Ngũ chỉ tay về phía bé gái chừng 4 tuổi đứng bên Ngầm nói: “Nó là Phò Y Xờm đó. Em thằng Ngầm đấy. Đói. Khổ. Chỉ tội trẻ con thôi”. Lia mắt nhìn, Xờm chỉ mặc một chiếc áo, mặt lấm lem, đôi tay cáu bẩn ôm cầm chiếc bát nhựa. Trong bát còn dính đôi hột cơm. Xờm lấy thìa xúc xúc nhưng chẳng được liền đưa cả bát đưa lên miệng liếm lấy hạt cơm ăn một cách ngon lành.
Bé Phò Y Xờm liếm chiếc bát còn dính đôi hột cơm
Theo lời ông Ngũ thì từ tháng giêng năm nay (tháng 1-2011), cả bản Nha Nang đã hết gạo. Để có miếng ăn người dân phải lặn lội đi làm thuê hoặc chui lủi vào rừng kiếm cái ăn. Vậy nhưng rừng cũng chẳng giúp được họ nhiều. Đi làm thuê thì công việc có hạn. Thế nên cái đói cứ bám riết lấy họ từng ngày. “Phải đến tháng 9 nếu trời cho thì mới có gạo ăn. Dân phải chờ thôi”. Cầm điếu thuốc rít một hơi thật sâu, ông Ngũ phân trần: “9 tháng không có gạo, lại không có việc gì làm, người dân sẽ sống sao đây?”.
Bố mẹ ông Ngũ sinh được 7 người con thì do đói, trình độ học vấn mà chết 3 chỉ còn lại 4. Giờ mấy anh em sống ở gần nhau nhưng nhà nào cũng đói. Nghe những lời nói của vị trưởng bản như dao cứa vào lòng nhưng tôi vẫn thấy ông khá… bình thản. Có vẻ như cái đói đã “bén duyên” nơi đây.
“Chữ hiếu” trong đói
Nói đoạn trưởng bản Nha Nang đứng phắt dậy chỉ tay về phía nhà đối diện, rồi nhà phía xa xa mà rằng: “Đấy, nhà Xeo Phò Soa, rồi Moong Mẹ Đà… đấy. Chúng nó là em tao nhưng cũng đói mấy tháng nay rồi”.
Người đàn bà có cái tên Moong Mẹ Đà sang nhà ông Ngũ. Theo tục của người Khơ Mú thì con gái khi về nhà chồng thì phải lấy họ chồng. Thế nên em gái của ông Ngũ mới mang tên họ Moong theo chồng. Nhà bà Đà chỉ ở gần nhà trưởng bản mấy bước chân. Đói nhưng vẫn thấy ba bốn chị em ngồi túm tụm chuyện to nhỏ.
Thấy lạ, mẹ Đà giải thích: “Nhà ta cũng hết gạo rồi. Cái thằng chồng đang vào rừng kiếm ăn. Ta ở nhà không biết làm chi cả. Mấy đứa con ta cũng đói lắm. Chẳng có chi ăn mô”. Tại Nha Nang ai ai cũng đói nên việc san sẻ giúp đỡ nhau là không thể. Đói nhưng trình độ học vấn thấp nên chẳng ai biết làm gì ngoài trông chờ vào vụ lúa.
Video đang HOT
Theo giải thích của Moong Mẹ Đà thì đói là vì dân bản mỗi năm chỉ có 1 vụ lúa. Năm 2010 do nắng hạn nên hầu như dân bản đều bị mất mùa. Nhà nào đạt năng suất thì cũng chỉ được hơn 1 tấn lúa so với những năm trước là 3 tấn.
“Lúa nếp các con góp đấy”
Đói là thế nhưng chuyện anh em góp lúa nếp cho cha ăn ở nhà ông trưởng bản khiến ai cũng sướng cái bụng. Ông Xeo Phò Thiện (82 tuổi – cha ông Ngũ) ngồi bên cái mẹt đựng lúa nếp chưa được làm sạch nói: “Lúa nếp các con góp đấy. Ta ăn gạo xuôi không quen đâu. Chỉ ăn gạo Khâu niêu (tiếng Khơ Mú, tức gạo nếp) thôi. Hết gạo nhưng các con ta góp cho đấy”.
Biết cha đã ở cái tuổi “gần đất xa trời”, lại không ưng cái gạo ở dưới xuôi nên mặc dù đói, các anh em của ông trưởng bản cũng góp mỗi người một ít để cho cha ăn. “Ta và con ăn gì cũng được. Nhưng một buổi phải nấu cho cha ăn một nồi nhỏ gạo nếp thôi. Nhưng cũng sắp hết rồi”, trưởng bản Xeo Phò Ngũ tâm sự.
Từ TP Vinh lên thị trấn Mường Xén của huyện biên giới Kỳ Sơn (Nghệ An) gần 300 cây số chỉ đi mất hơn 5 tiếng đồng hồ. Vậy nhưng từ thị trấn này vào “cổng trời” xã Mường Ải chỉ chừng 45 cây số mà cũng phải đi xấp xỉ gần 3 tiếng đồng hồ bằng xe khách nếu thời tiết thuận lợi. Đường sá cách trở là thế nên việc kiếm cái ăn của dân bản cũng hết sức gặp khó khăn.
Mới đây, UBND tỉnh Nghệ An đã phân bổ gần 4 ngàn tấn gạo (do Chính phủ hỗ trợ theo QĐ số 731 ngày 17-5-2011 của Thủ tướng Chính phủ) cho 9 huyện là: Thanh Chương, Anh Sơn, Con Cuông, Tương Dương, Kỳ Sơn, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu và Quế Phong để hỗ trợ các gia đình thiếu đói trong thời kỳ giáp hạt năm 2011, mỗi khẩu 15kg gạo. UBND tỉnh đã đề nghị Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh vận chuyển số gạo trên cho các huyện đảm bảo chất lượng, số lượng kịp thời và hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc cấp phát gạo ở các địa phương.
Theo Bee.net.vn
Lay lắt phận nghèo trên phá Tam Giang
Nhà đông con, thất học, trong khi cá tôm đang ngày một cạn kiệt, cái ước vọng thoát nghèo của cư dân ven đầm phá Tam Giang - Cầu Hai (vùng đầm phá có lớn nhất Đông Nam Á) ngày một chông chênh, bế tắc.
Hê đầm phá Tam Giang - Cầu Hai là vùng ngập nước, nơi ráp gianh giữa sông và biển, rông đên 22 nghin ha, kéo dài 24 km qua các huyện Quảng Điền, Phong Điền, Hương Trà, Phú Vang và Phú Lộc của tỉnh Thừa Thiên Huế. Những cư dân sống ven đầm phá này sống chủ yếu dựa vào nguồn thủy sản họ đánh bắt được trên phá.
Sáng sớm. Cả vùng đầm phá Tam Giang còn chìm trong màu đen kịt, chị Nguyễn Thị Ánh (35 tuổi, thôn Ngư Mỹ Thạnh, Quảng Lợi, Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế) lọ mọ đốt đèn, chuẩn bị đồ đạc đi giăng lươi. Bị cụt cánh tay phải nhưng chị Ánh khá thành thạo trong từng thao tác. Tay trái còn lại nhẹ nhàng rải lưới trôi theo con nước. Vụ tai nạn kinh hoàng cách đây gần chục năm đã cướp đi cánh tay của chị.
Chị Ánh chỉ còn một cánh tay vẫn cần mẫn mưu sinh trên vùng nước giờ đã cạn kiệt thủy sản. Ảnh: Nguyễn Đông.
Ngày đó, gia đình mới tằn tiện sắm được chiếc đò máy, hai vợ chồng làm nghề kéo cá. Vô tình chị để áo quấn vào máy, nghiến đứt cả cánh tay phải. Gân 2 năm điều trị, chị mới dám đi biển lại nhưng những con đò máy thì vẫn ám ảnh mãi.
Hơn môt giơ lăn lôi tha lươi, vơt no sao, kêt qua thu đươc chăng la bao: vai đum tôm leo teo. "Heng (it) lăm chu ơi. Đanh băt đâu con dê dang như trươc đây nưa. Ca nha môi ngay cât lưc theo đâm pha cung chi đươc vai chuc bac. Cư như ni đoi dai dai la cai chăc", giong chi Anh châm buôn.
Nguôn thuy san trên pha Tam Giang ngay cang can kiêt, nhiều người quay quắt vì đói. Chính vì thế, dù đã bao năm gắn bó trên con nước, không ít người chịu không nổi đã quyết định khăn gói vào Nam lập nghiệp.
Tại các huyện Quảng Điền, Phong Điền, Hương Trà, Phú Vang và Phú Lộc, nơi nhiều ngư dân sống dựa vào phá Tam Giang, chuyện thanh thiếu niên rời làng đi làm ăn xa chẳng còn xa lạ.
Riêng ở huyện Quảng Điền, theo phòng Lao động thương binh và xã hội huyện, những năm gần đây làn sóng ly hương ngày một nhiều. Trung bình mỗi năm có đến 5.000 - 6.000 lao động bỏ đến các thành phố lớn, chu yêu la thanh niên.
Theo thống kê của UBND huyện Quảng Điền, bình quân số hộ nghèo toàn huyện chưa tới 12% nhưng tất cả các xã ven đầm phá Tam Giang đều có tỷ lệ hộ nghèo vượt trung bình trung của huyện. Đặc biệt, tại xã Quảng An có đến gần 19% số hộ nghèo, Quảng Công có đến hơn 16%, các xã Quảng Lợi, Quảng Ngạn... tỷ lệ hộ nghèo đều chiếm trên 15%.
Đáng lo ngại nhất có lẽ là cuộc sống của hang chuc hô dân nha chô con sot lai trong cac đơt "sơ tán" vung đâm pha Tam Giang - Câu Hai trước mùa mưa bão. Nhà chồ là những căn lán rộng chừng 5 - 7m 2 được những cư dân ven phá dựng tạm để sinh sống. Những ngôi nhà chồ còn lại hiện nay được xây dựng khá kiên cố với cột xi măng, mái tôn nhưng trước những cơn cuồng phong mùa nước lũ của phá Tam Giang, chẳng mấy chốc đã xiêu vẹo.
Những căn nhà chồ mỏng manh trước phá lớn. Ảnh: Nguyễn Đông.
Cơn bao năm Ât Sưu (1985) vân con la nôi kinh hoang vơi ngươi dân vung sông nươc. Ca vùng đầm phá khi ấy là một màu tang tóc với hàng trăm xác người chết dạt vào ven phá, chủ yếu là dân thủy diện, nhà chồ. Sau cơn bão, nhà chồ như một nỗi ám ảnh, ai ai cũng muốn lên bờ.
Ngay nao cung thê, ông Hoang Công Anh (56 tuôi, thôn 8, xã Điên Hai) cung nhưng cư dân trong xã lai tha lư, vơt no sao ngay trên vung đâm pha. Căn nha chô vơi gân chuc nhân khâu cua ông sau nhiêu lân xê dich giơ vân năm ngay phia chân song Tam Giang.
"Sơ chư. Mua mưa bao nao ca gia đinh tôi cung phai chuân bi săn đô đac cân thiêt rôi di tan vao ơ nha ngươi quen trong đât liên", ông kể. Ngay như mua mưa lu năm ngoai, nươc pha dâng lên đên ca nên san, lam hư hai nhiêu đô đac cân thiêt.
"Lam ca năm cho đâm pha no pha thôi. Cai ngheo đeo bam miêt, muôn nên bơ ma không thê lên đươc", ông đúc kết.
Đâu năm 2009, nganh chưc năng huyên đên kiêm kê đo đac đê tinh phương an di dơi nhưng đên nay ho vân chưa đươc "sơ tán", phai sông ngay phia đâu con song, nguy hai treo lơ lưng tưng ngay.
Nhiều hộ dân may mắn được lên bờ nhờ chính sách tái định cư cũng đang ngắc ngoải với cuộc mưa sinh, vì lên bờ rồi cũng không biết làm gì để có thu nhập. Chỉ tính riêng tại xã Phú Xuân, huyện Phú Vang, trong hơn 300 hộ dân sống nhờ đầm phá được bố trí tái định cư ở hai thôn Thủy Diện, Lê Bình từ 25 năm trước, đến nay số hộ nghèo của hai thôn này vẫn cao hơn trung bình của cả xã, đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn.
Trẻ con theo cha mẹ sống trên mặt nước lênh đênh, chuyện học hành, vui chơi gần như xa xỉ. Ảnh: Nguyễn Đông.
Cái nghèo bủa vây, con chữ với những đứa trẻ nơi đầm phá cũng chòng chành.
Giữa mênh mông nước, em Trần Huỳnh (15 tuổi, thôn Ngư Mỹ Thạnh, Quảng Lợi) lọt thỏm trên chiếc thuyền tre, gắng gỏi theo từng đường chèo thả lưới. Huỳnh bỏ học từ cuối những năm lớp 9. Đứa em trai lớp 6 cũng vừa phải nghỉ học giữa chừng.
"Trường thông báo đầu năm phải đóng tổng cộng đến gần triệu bạc. Tui chẳng đào đâu ra nên kêu chung no nghi", ông Trần Đường (40 tuổi), bố của Huỳnh bộc bạch. Cả đời theo con nước, ông Đường va vơ đến nay đều thất học, mù chữ.
Theo ông Trần Văn Minh, trưởng thôn Ngư Mỹ Thạnh: làng có 145 hộ khai thác thủy sản trên đầm phá thì có đến 20% người mù chữ. Cứ tính từ độ tuổi 30 trở lên, số người biết chữ trong làng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chuyện con cái bỏ học diễn ra thường xuyên.
"Hết cấp hai có hơn 60 em nhưng lên cấp 3 thì chỉ còn hơn 10 em. Đại học càng hiếm hơn. Từ trước đến nay, làng mới chỉ có 6 con em theo học đai hoc... Chung quy cũng tại đói nghèo cả".
Tại thôn Phước Lập (xã Quảng Phước, Quảng Điền), ông Hà Văn Dân, trưởng thôn tự hào khoe chuyện con em trong làng thi đại học hầu hết đều đỗ cả. Nhưng nhẩm tính ra số các em học đại học mới chỉ chưa đây 10 em. Cả thôn vẫn còn trên dưới 40% người mù chữ, thất học.
Thất học đang là hệ lụy buồn của những cư dân ven đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Ông Nguyễn Xuân Công, Chủ tịch UBND xã Điền Hải (huyện Phong Điền) cho hay: xã vận động, khuyến khích bà con cho con em đi học cùng nhiều hình thức khuyến học, phát thưởng nhưng đến nay chuyện con em bỏ học giữa chừng vẫn diễn ra. Tỷ lệ mù chữ còn cao. Đói nghèo, đói chữ, thất học rồi đến sinh đẻ nhiều, cuộc sống khó khăn... là cái vòng luẩn quẩn tại nhiều vùng ven đầm phá này.
Theo VNExpress
Ngôi đền kỳ lạ nơi 'cổng trời' Với những người dân nơi rẻo cao này, các vị thần trong đền ẩn chứa nhiều sức mạnh của thần linh... Ít ai biết rằng, giữa vùng đất xa xôi hẻo lánh Bản Luốc (huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang) lại có một ngôi đền tồn tại hàng trăm năm trên núi cao. Với những người dân nơi rẻo cao này, các...