Công nghiệp văn hoá: Điện ảnh – Tấm gương phản chiếu
Là môn nghệ thuật thứ bảy, ra đời sau các loại hình nghệ thuật khác nhưng điện ảnh ngày càng khẳng định vị trí quan trọng của mình.
Là một loại hình nghệ thuật mang tính đại chúng, điện ảnh giờ đây đã trở thành một loại hình giải trí tác động đến cả thương mại hóa, đại chúng hóa và công nghiệp hóa.
Cảnh phim Chung một dòng sông
Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của điện ảnh, cùng với sự phản ánh hiện thực khách quan, đã khiến cho điện ảnh trở thành tấm gương phản chiếu đời sống xã hội, hay nói rộng hơn, còn là tấm gương phản chiếu thời đại. Nhìn vào hành trình hơn 60 năm qua của điện ảnh Cách mạng Việt Nam, có thể thấy rõ sự phản chiếu thời đại rõ nét trong các tác phẩm điện ảnh.
Chiến tranh – nguồn cảm hứng bất tận
Phản ánh hiện thực khách quan luôn là tiêu chí đầu tiên cho một tác phẩm nghệ thuật, trong đó có điện ảnh. Đầu thế kỷ XX, điện ảnh đã được du nhập vào Việt Nam nhưng nền điện ảnh Cách mạng Việt Nam chỉ được khai sinh vào ngày 15/3/1953 tại Chiến khu Việt Bắc (ATK), huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 147/SL thành lập “Doanh nghiệp Quốc doanh Chiếu bóng và Chụp ảnh Việt Nam”. Ra đời và trưởng thành bom đạn của hai cuộc chiến tranh, điện ảnh Việt Nam từng được mệnh danh là “nền điện ảnh chiến tranh” bởi chiến tranh trở thành đề tài chủ đạo, thành cảm hứng xuyên suốt của các nhà làm phim. Và thực tế cho thấy, nhiều bộ phim có giá trị nhất, được coi là kinh điển của điện ảnh Việt Nam là phim về đề tài chiến tranh Cách mạng.
Từ khi ra đời đến cuối những năm 1950, nền điện ảnh Cách mạng non trẻ đã bám sát hiện thực cuộc chiến tranh của dân tộc bằng những thước phim tài liệu phản ánh mọi mặt của cuộc chiến trên khắp mọi miền tổ quốc, từ bưng biền Đồng Tháp Mười tới khúc ruột miền Trung và chiến khu Việt Bắc.
Chung một dòng sông - Bộ phim truyện đầu tiên của điện ảnh Cách mạng cũng phản ánh hiện thực nóng nhất của giai đoạn đó. Qua môtip mang ý nghĩa tượng trưng: mối tình bị ngăn trở của đôi trai gái yêu nhau cũng là hình ảnh của hai miền Nam – Bắc nước ta bị chia cắt bởi chiến tranh, Chung một dòng sông đã đạt được yêu cầu về mặt nội dung tư tưởng, đề cập đến vấn đề nóng hổi của dân tộc lúc đó là đấu tranh thống nhất nước nhà.
Kể từ đó, phim truyện điện ảnh không chỉ phản ánh mọi mặt của hiện thực cuộc sống – hiện thực cuộc chiến tranh mà còn góp phần động viên tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Hàng loạt các tác phẩm như Chị Tư Hậu, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Em bé Hà Nội… phản ánh cuộc chiến tranh từ nhiều góc độ và đều trở thành những tác phẩm kinh điển của điện ảnh Việt Nam.
Cảnh phim Canh bạc
Hàng chục năm từ khi ra đời, trải dài qua hai cuộc kháng chiến, đề tài chiến tranh với những hiện thực ngồn ngộn đã trở thành một đề tài quan trọng của điện ảnh Việt Nam. Sau năm 1975, ngay cả khi đất nước đã thống nhất, cả dân tộc bước vào cuộc sống hòa bình thì phần lớn những tác phẩm điện ảnh thành công nhất vẫn là bộ phim phản ảnh chiến tranh hoặc khai thác những vấn đề ngóc ngách sau chiến tranh hay những bi kịch thời hậu chiến. Có thể kể đến những bộ phim như: Cánh đồng hoang, Bao giờ cho đến tháng mười, Tội lỗi cuối cùng, Chuyện cổ tích cho tuổi 17, Tuổi thơ dữ dội…
Video đang HOT
Cuối những năm 1980, đầu những năm 1990 của thế kỷ XX, mạch cảm xúc về chiến tranh vẫn còn được thế hệ các đạo diễn sinh vào những năm 1950 tiếp nối với hàng loạt những tác phẩm vừa mang tính chiêm nghiệm, vừa là những góc nhìn rất riêng của thế hệ những người trẻ tuổi ở thời điểm đó về cuộc chiến đã qua.
Cùng với Hãy tha thứ cho em, Cỏ lau, Ai xuôi vạn lý, Cây bạch đàn vô danh, Lưỡi dao, Ai xuôi vạn lý, Hoa của trời, Ngã ba Đồng Lộc, Đời cát, Bến không chồng… chiến tranh đã mang hơi thở của thời đại với những góc nhìn đa diện, cho thấy niềm hy vọng hoan ca, về một thế hệ trẻ giàu lòng tự trọng, dám nghĩ khác, nhất định sẽ tạo dựng được một tương lai tươi sáng sau những ký ức chiến tranh của một thời.
Luồng gió mới trong sáng tác điện ảnh
Những năm 1990 cũng đánh dấu một bước chuyển lớn của đất nước: thời kỳ Đổi mới. Chủ trương đổi mới trong lĩnh vực văn hóa nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng đã tạo nên những đổi thay rõ rệt trong tư duy sáng tác của các nghệ sĩ. Bắt nguồn từ đời sống và là tấm gương phản chiếu xã hội, văn học nghệ thuật – trong đó có điện ảnh – cũng bước vào một thời kỳ đổi mới, bám sát hiện thực cuộc sống. Mang đặc trưng riêng của một ngành công nghiệp sản xuất, điện ảnh không có ngay lập tức những tác phẩm phản ánh những chuyển biến mang tính thời sự của xã hội như các loại hình nghệ thuật khác, đặc biệt là văn học. Những bộ phim ra đời ở thời điểm “giao thời”, đặc biệt là đầu thời kỳ Đổi mới như Tướng về hưu, Cô gái trên sông, Gánh xiếc rong… thường dấy lên những dư luận khen chê trái chiều. Có thể coi đây là một dấu hiệu đáng mừng bởi nó mở ra một thời kỳ mới về sáng tác và thưởng thức nghệ thuật, khi đã một quãng thời gian dài người ta quen nghĩ, nghe và nói theo một chiều thuận. Những luồng tư tưởng mới của thời đại đã góp phần làm thay đổi diện mạo nền điện ảnh trong giai đoạn đó. Những nhận thức mới mẻ về tư tưởng đã góp phần đa dạng hóa các tác phẩm điện ảnh, từ đó cho ra đời nhiều tác phẩm phản ảnh muôn mặt của đời sống, với những góc khuất trái chiều để từ đó tổng quát được bức tranh đa dạng và những vấn đề căn bản của hiện thực xã hội. Bầu không khí cởi mở sau Đổi mới đã tạo tiền đề cho sự ra đời của nhiều tác phảm điện ảnh vừa táo bạo về nội dung vừa mới mẻ, phá cách trong hình thức biểu hiện.
Tư duy cách tân mở ra hướng đi mới
Đầu những năm 1990, bên cạnh những bộ phim tiếp tục khai thác đề tài chiến tranh thì những bộ phim phản ánh hiện thực cuộc sống hòa bình ngày càng nhiều. Đặc biệt, một vài bộ phim được đánh giá là thành công về nghệ thuật còn đi liền với thành công về mặt thương mại, đánh dấu một tư duy mới trong việc coi điện ảnh không chỉ là tác phẩm nghệ thuật mà còn là một ngành công nghiệp, vừa mang tính giải trí vừa mang lại lợi nhuận.
Cảnh phim Vị đắng tình yêu
Bộ phim Vị đắng tình yêu từng mang lại thành công bất ngờ cả về nghệ thuật và doanh thu, mở màn cho một trào lưu mới là làm phim thương mại.
Gái nhảy ra mắt vào dịp đầu năm 2003 đã trở thành một sự kiện nổi bật của điện ảnh Việt Nam khi nó là bộ phim ăn khách nhất với doanh thu khoảng 12 tỷ đồng – một kỷ lục về doanh thu của điện ảnh Việt Nam mà chưa có bộ phim nào (kể cả phim Mỹ) đạt được ở thị trường Việt Nam.
Gái nhảy là một bộ phim mang tính đột phá của điện ảnh Việt Nam ở thời điểm đó, khi mà các nhà làm phim vẫn đang loay hoay đi tìm câu trả lời cho khuynh hướng làm phim: thương mại hay nghệ thuật? làm phim đáp ứng thị hiếu, nhu cầu của khán giả hay làm phim với mục đích tuyên truyền để chiếu vài dịp kỷ niệm rồi cất vào kho? Gái nhảy đã gợi mở một hướng đi mới đầy tiềm năng: vừa thu hút khán giả và trở thành một bộ phim ăn khách đầu bảng nhưng vẫn mang những giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật, đặc biệt là hiệu quả trong việc chuyển tải những thông điệp xã hội một cách dễ cảm thụ và hấp dẫn.
Cảnh phim Lọ lem hè phố
Có thể nói, với Gái nhảy và Lọ lem hè phố, đạo diễn Lê Hoàng đã góp phần mở ra xu hướng làm những bộ phim giải trí ăn khách – một điều đặc biệt cần thiết với điện ảnh Việt Nam thời điểm đó, khi dòng phim thương mại “mì ăn liền” đã rơi vào cảnh chợ chiều từ năm 1995, phong trào bỏ vốn làm phim của các nhà sản xuất phim tư nhân tan rã. Trong khi đó, nhiều bộ phim do Nhà nước tài trợ, đặt hàng dù được đánh giá tốt về nghệ thuật, đoạt giải thưởng tại các kỳ liên hoan phim trong nước và quốc tế nhưng lại thu hút rất ít khán giả tới rạp xem phim. Thực tế cho thấy, kể từ đó, điện ảnh Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn của những bộ phim hướng tới khán giả và liên tiếp lập nên những kỷ lục doanh thu phòng vé, tạo đà cho điện ảnh Việt tạo dựng một thị trường điện ảnh tiềm năng với lợi thế dân số hơn 90 triệu người và đang ở thời kỳ “dân số vàng”.
Theo vanhien.vn
"Nói thế nào, dùng diễn viên nhí để đóng vai "người lớn" đã là không phù hợp"!
Phó Chủ nhiệm UB Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên & Nhi đồng của Quốc hội Phạm Tất Thắng nhấn mạnh quan điểm đó khi trao đổi về bộ phim "Vợ ba" để nữ diễn viên 13 tuổi đóng những cảnh nhạy cảm.
- "Vợ ba" - bộ phim từng giành giải tại một số liên hoan phim quốc tế vừa được công chiếu tại Việt Nam thì vấp phản ứng vì sử dụng diễn viên trẻ em (13 tuổi) đóng những cảnh nhạy cảm, dung tục. Cơ quan quản lý nhà nước về lao động còn nhận định nhà làm phim vi phạm quy định về việc sử dụng lao động trẻ em, thậm chí đặt vấn đề có dấu hiệu lôi kéo trẻ em vào hoạt động có tính chất không lành mạnh. Ở vị trí một cơ quan giám sát các vấn đề về văn hoá, quan điểm của ông về vấn đề này?
Ông Phạm Tất Thắng
Lĩnh vực nghệ thuật, đặc biệt là điện ảnh có những đặc thù nên một số bộ phim, vở kịch có sử dụng diễn viên trẻ em, như "Vợ ba", trong thực tế là có. Tuy nhiên, việc sử dụng diễn viên nhí như vậy, muốn có được sự ủng hộ của dư luận thì cần thận trọng hơn.
- Nói như vậy, ông vừa ủng hộ việc "truy xét" tính hợp pháp của bộ phim lại vừa "cảm thông" với nhà sản xuất?
Việc này có 2 góc độ cần xem xét. Thứ nhất, diễn viên 13 tuổi rõ ràng là người chưa đủ độ tuổi lao động. Dù lao động trẻ em vẫn được cho phép sử dụng nhưng phải đảm bảo những điều kiện nhất định. Những trường hợp công việc có khả năng ảnh hưởng sự phát triển tâm, sinh lý và các mối quan hệ xã hội của trẻ thì pháp luật không cho phép sử dụng lao động chưa đủ tuổi như vậy. Đoàn làm phim đáng ra phải chú ý khía cạnh pháp lý đó.
Sau nữa, phải lưu ý là việc sử dụng diễn viên nhí để đóng cảnh nhạy cảm, dung tục thì dù ở những xã hội rất "cởi mở" như văn hóa Âu, Mỹ cũng rất thận trọng vì khả năng vấp phải sự phản ứng của dư luận, huống hồ Việt Nam là một xã hội có hệ thuần phong mỹ tục theo truyền thống văn hóa Á đông khắt khe hơn. Việc sử dụng diễn viên nhỏ tuổi như vậy đóng trực tiếp các cảnh nhạy cảm rõ ràng không hợp thuần phong mỹ tục.
Từ 2 yếu tố, cả về pháp lý lẫn văn hóa như vậy, có thể thấy đoàn làm phim đã có những tính toán, quyết định không phù hợp. Vì vậy, bộ phim dù vấp phải sự phản ứng của dư luận xã hội.
- Những vấn đề "đáng tiếc" thực tế đều đã xảy ra, bộ phim đã hoàn thành, đưa đi thi thố rồi ra rạp để truyền bá tới công chúng. Phải xử lý các vấn đề ông chỉ ra thế nào?
Trước khi công chiếu ở Việt Nam, cơ quan quản lý đã thực hiện đầy đủ quy trình kiểm duyệt bộ phim này. Từ phía cơ quan chuyên môn đến người bảo hộ diễn viên đều cho rằng quá trình quay phim và công chiếu không vi phạm quy định cấm.
Nhưng rõ ràng việc phân định đúng - sai lúc này rất khó. Dưới góc độ pháp lý và thuần phong mỹ tục, quan niệm văn hóa phương đông thì việc sử dụng diễn viên nhỏ tuổi là không phù hợp. Đáng ra, nếu đoàn làm phim và nhà sản xuất vì năng khiếu nghệ thuật của diễn viên mà sử dụng thì với những cảnh quay nhạy cảm cũng nên dùng diễn viên đóng thế.
- Dư luận thì vẫn đặt câu hỏi về trách nhiệm của cơ quan kiểm duyệt qua các khâu trong quá trình sản xuất bộ phim, thưa ông?
Tôi đã nói, lao động nghệ thuật là lĩnh vực có yếu tố đặc thù, nhạy cảm riêng. Theo thông tin từ cơ quan quản lý về điện ảnh thì đơn vị làm phim thực hiện đầy đủ quy trình duyệt phim. Mẹ của diễn viên cũng khẳng định cảnh chiếu trên phim chỉ bộc lộ gương mặt của diễn viên chứ không thực sự có những cảnh dung tục.
Nhưng dù lý giải như vậy thì việc để một diễn viên 13 tuổi, độ tuổi vị thành niên, đóng cảnh nhạy cảm rõ ràng vừa không phù hợp quy định pháp luật, vừa không hợp thuần phong mỹ tục. Cơ quan quản lý và nhà sản xuất phim phải rút kinh nghiệm.
- Có sự thiếu sót, dễ dãi trong kiểm duyệt ở đây? Có thể xác định sự thiếu trách nhiệm đó diễn ra ở khâu nào, từ việc cấp phép sản xuất, thông qua kế hoạch làm phim hay ở công đoạn sau cùng, duyệt nội dung trước khi phim được đưa ra công bố...?
Có thể hiểu như thế nhưng cũng cần chia sẻ với cơ quan quản lý trong việc này. Việc dùng diễn viên 13 tuổi để đóng một vai như thế có gây phản cảm hay không, ranh giới rất khó phân định, có thể cơ quan quản lý không tính tới.
Việc này cũng tuỳ thuộc quan điểm nữa. Thông tin từ Cục điện ảnh, nhà làm phim cho tới phụ huynh của diễn viên đều nói không có cảnh dung tục. Nhưng rõ ràng, dùng diễn viên nhí đóng vai "người lớn" thì đã là không phù hợp rồi.
- Vậy tác phẩm có nên được tiếp tục truyền bá, theo quan điểm của ông?
Tôi được biết là ở Việt Nam thì cơ quan quản lý đã yêu cầu dừng chiếu và đoàn làm phim cũng quyết định dừng chiếu bộ phim tại các rạp.
Xét theo góc độ pháp lý, đạo đức thì không nên tiếp tục công chiếu rộng rãi bộ phim này hoặc có công chiếu thì phải kiểm duyệt lại để loại bỏ hoàn toàn cảnh có thể gây phản cảm với người xem, dư luận. Còn việc công chiếu ngoài phạm vi Việt Nam thì phải soi theo quy định của từng quốc gia.
Xin cảm ơn ông!
Theo vietnamnet.vn
Hoàng Yến Chibi, Huỳnh Lập nhận cú đúp tại Ngôi sao xanh 2018 Hai nghệ sĩ trẻ có hoạt động sôi nổi trong năm 2018 tiếp tục được ghi nhận bằng những giải thưởng trong sự nghiệp và việc nhận về cú đúp giải thưởng tại Lễ trao giải Ngôi sao xanh mùa thứ 5 tiếp tục vẽ nên mốc son đáng nhớ trong sự nghiệp làm nghệ thuật của cặp đôi diễn viên 9X. Ngày...