Công chức chửi bậy sẽ “không được nâng lương”
“Công chức chửi bậy, thô lỗ… bị coi như không hoàn thành nhiệm vụ và sẽ bị kỷ luật từ nhắc nhở tới không nâng lương”, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ nói.
Thái độ cũng là nhiệm vụ
Ngày 29/5, UBND thành phố Hà Nội ra quy chế thực hiện kỷ cương hành chính và văn hóa công sở. Theo đó, cán bộ công chức khi thực thi công vụ phải có thái độ lịch sự, tác phong chuyên nghiệp, nhã nhặn, lắng nghe ý kiến, trang phục gọn gàng… Đặc biệt, quy chế quy định rõ cán bộ công chức không được nói tục, nói tiếng lóng, quát nạt người khác…
Ông Thang Văn Phúc, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ cho rằng, quy chế này là tốt vì xác định rõ phạm vi đạo đức công vụ, đạo đức công chức. Những quy định này là điều bình thường trong giao tiếp cơ bản nhưng có nhiều cán bộ công chức hay chửi bậy, coi nhiệm sở như quán bia nên phải ra quy định.
“Đáng ra công chức là người làm gương cho xã hội thì lại là người vi phạm những thói xấu đó”, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ nói.
Ông Thang Văn Phúc, nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ
Năm 2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ban hành quy chế văn hóa công sở, quy định cán bộ công chức phải có thái độ lịch sự, không nói tục, nói tiếng lóng…
Ông Phúc cho biết, trước đây rất lâu, Bác Hồ cũng đã nói công chức phải là công bộc, đầy tớ phục vụ nhân dân. Công chức chửi bậy là một thực tế, cần phải lên tiếng để giáo dục và răn đe.
Kết quả cuộc điều tra thực trạng văn hóa ứng xử tại các cơ quan hành chính, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp, nơi công cộng và khu dân cư ở Hà Nội cho thấy, 88% người được hỏi cho rằng cán bộ lãnh đạo có hành vi ứng xử không phù hợp.
Ông Phúc nhận định, đây là điều đáng suy nghĩ. Công chức là người phục vụ nhân dân, phục vụ sự phát triển nên luôn cần nở nụ cười, niềm nở hướng dẫn xã hội. Cán bộ công chức có thái độ thô lỗ, cục cằn là điều đáng báo động và phải cấm. Nếu họ không thay đổi cần phải bị kỷ luật. Thông qua giám sát và ý kiến của người dân, lãnh đạo quản lý trực tiếp công chức đó sẽ phải nhắc nhở hoặc phê bình, đặc biệt khi người dân đã lên tiếng.
“Công chức không thay đổi mà vẫn vi phạm như nói tục, thô lỗ… bị coi như không hoàn thành nhiệm vụ và sẽ bị kỷ luật từ nhắc nhở tới không nâng lương”, Nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ nhấn mạnh.
Video đang HOT
Công chức không được quát nạt, nói tục nơi công sở. Ảnh minh họa
“Tuyệt đối không được chửi bậy”
Ông Phan Đăng Long, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội cho rằng, nếp sống thanh lịch là truyền thống của người Hà Nội. Tuy nhiên, trong thời buổi kinh tế thị trường, nếp sống thanh lịch không được phát huy, kế thừa. Cách ứng xử “chưa đúng mực” của một số cán bộ công chức gây bức xúc cho người dân và là hình ảnh không đẹp nơi công sở. Trong khi đó, cán bộ công chức là những người đại diện cho Nhà nước, có vị trí, trình độ nên cần có ứng xử xứng đáng với vị trí của người cán bộ công chức Thủ đô.
Dù cán bộ công chức nổi nóng vì nguyên nhân khách quan, nhưng trong mọi tình huống nảy sinh, người cán bộ công chức phải xử lý tình huống khéo léo, nhã nhặn, bình tĩnh, kiên trì giải thích, Phó trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội nhấn mạnh.
Nếu gặp phải người có thái độ không đúng mực, cán bộ công chức có thể từ chối xử lý công việc hoặc nhờ bảo vệ can thiệp. “Tuyệt đối không được chửi bậy, quát nạt”, ông Long nói.
Nói thêm về ngôn ngữ xưng hô, ông Long cho rằng, đồng nghiệp nơi công sở nên xưng “tôi”, gọi người đối diện là “anh” hoặc “chị”. Cách gọi này vẫn giữ được sự tôn trọng với người đối diện, đồng thời giữ được sự nghiêm túc nơi công sở. Trong trường hợp cán bộ tiếp dân, tốt nhất nên gọi “anh, chị” xưng “tôi”. Tuy nhiên, những trường hợp chênh lệch quá lớn về tuổi tác có thể gọi “thưa bác”, “thưa cô”, xưng “tôi” hoặc “cháu”. Cách xưng hô này giữ được sự tôn nghiêm nơi công quyền, đồng thời làm cho người cao tuổi vẫn thấy được sự tôn trọng khi đến làm việc.
Theo Khampha
"Không gọi 'thằng, con' nơi công sở"
"Vì những từ "thằng", "con" trong tiếng Việt có sắc thái suồng sã, bỗ bã và thiếu tôn trọng".
Xưng hô thân mật như trong gia đình theo kiểu "bác bác - cháu cháu"... là chuyện thường tại công sở. Nhiều ý kiến cho rằng, cách xưng hô "gia đình hóa" giúp đồng nghiệp nhanh chóng gần gũi nhau hơn. Nhưng cũng có người cho rằng, "chú chú - cháu cháu" tại công sở tiêu diệt tính độc lập của con người khi nêu ý kiến, triệt tiêu sự tranh luận, đối thoại. PV có cuộc trao đổi với PGS.TS Hoàng Kim Ngọc, Phó Trưởng Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa quốc tế, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, về vấn đề này.
Trong giao tiếp hàng ngày, người Việt khi nói chuyện với người lớn tuổi thì gọi là: cụ, ông, bác, chú, cô, anh...; nói chuyện với người nhỏ hơn gọi là em, cháu... Vậy, cơ sở của lối xưng hô này xuất phát từ đâu, thưa bà?
PGS.TS Hoàng Kim Ngọc
PGS.TS Hoàng Kim Ngọc: Lối xưng hô này có thể lí giải bằng nhiều nguyên nhân ngôn ngữ học và văn hoá - xã hội. Theo tôi, trước hết xuất phát từ cơ cấu tổ chức xã hội của làng xã cổ truyền Việt Nam.
Đó là tổ chức làng xã theo huyết thống, địa vực với nhu cầu cần bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong công việc và cuộc sống đã dẫn đến khuynh hướng thân thuộc hoá mối quan hệ làng xóm bằng xưng hô. Do vậy, chúng ta thường thấy người Việt xưng hô với người trong xã hội như trong gia đình.
Cơ sở thứ hai là lối sống nặng về tình cảm của người Việt. Nguồn gốc văn hoá nông nghiệp với đặc điểm trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm, sự yêu ghét làm nguyên tắc ứng xử: "Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng; Yêu nhau chín bỏ làm mười... Chính vì vậy, người Việt Nam muốn nhấn mạnh đến sự ràng buộc tộc họ bằng cách dùng từ thân tộc để xưng hô.
Thưa bà, có thể nhận thấy, phần lớn cách xưng hô nơi công sở hiện nay theo hướng gia đình hóa "bác bác - cháu cháu", đồng nghiệp trẻ gọi người nhiều tuổi hơn như cha chú; đồng nghiệp lớn tuổi gọi người ít tuổi hơn như con cháu trong nhà. Bà nghĩ sao về cách xưng hô thân mật này? Liệu rằng, người trẻ có nghĩ mình là bậc con cháu mà mât đi sự tư tin không?
PGS.TS Hoàng Kim Ngọc: Người ít tuổi xưng hô với người nhiều tuổi như: "Thưa chú ...", "Thưa cô " là tôn trọng người lớn tuổi. Đó là truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt, "kính lão đắc thọ" mà.
Chẳng phải vì việc xưng hô này mà làm ảnh hưởng đến sức sáng tạo và sự tự tin của họ đâu, sự xưng hô phải đạo ấy chỉ làm gia tăng giá trị con người họ thôi.
Tôi lấy ví dụ, một vị giáo sư hết tuổi quản lí, thôi giữ chức hiệu trưởng trường đại học, về làm giảng viên bình thường ở một khoa chuyên môn. Người trưởng khoa này là học trò cũ vẫn gọi giáo sư là "thầy" xưng "em".
Tôi không thấy vì sự xưng hô đó mà người trưởng khoa này bị giảm uy tín và vai trò lãnh đạo của mình. Tôi thấy không thể chấp nhận được nếu anh ấy gọi giáo sư là "ông" xưng "tôi" để thể hiện quyền uy của mình.
Tuy nhiên, vị giáo sư này không vì thế mà gọi "thủ trưởng" là "em" xưng "thầy", ông sẽ gọi trưởng khoa bằng tên và xưng "mình" hoặc "tôi" để thể hiện sự tôn trọng.
Tại công sở, cần tránh từ ngữ xưng hô có sắc thái suồng sã và thiếu tôn trọng. (Ảnh minh họa)
Nhưng cách xưng hô "cha chú" ấy cũng dễ làm người nhiều tuổi có tâm lý kẻ cả, bề trên. Chắc hẳn, trong cơ quan công quyền hiện nay, không thiếu cảnh người dân đến làm việc khúm núm "bác bác - con con" như: "Bác cho con xin cái dấu đỏ". Cách xưng hô nơi cơ quan hành chính như vậy làm người ít tuổi có cảm giác như đi xin, người nhiều tuổi như đi ban ơn, bà có nghĩ vậy không?
PGS.TS Hoàng Kim Ngọc: Theo tôi, người đến cơ quan hành chính giao dịch cần xưng hô lịch sự, đúng mực, hạn chế những từ thể hiện mối quan hệ họ hàng quá gần gũi như: dì, thím, con...
Còn trong trường hợp cụ thể này, tôi nghĩ, người đề nghị nói như thế cũng không sao nếu như họ thấy người mình cần gặp đáng tuổi bác, bởi nó thể hiện sự kính trọng, lễ phép, (có lẽ đây là một người miền Nam, tuy nhiên nếu xưng "cháu" trong ngữ cảnh này thì sẽ hợp lý hơn "con", vì đúng mực hơn).
Sẽ thật khó nghe nếu người đó nói: "Chào ông, ông đóng cho tôi cái dấu". Chúng ta đừng nghĩ rằng vì từ "con", từ "cháu", từ "xin" có trong lời đề nghị mà cho như thế là họ hạ mình và nhân viên hành chính sẽ nể tình mà đóng dấu không theo nguyên tắc đâu.
Tuy nhiên, trong công sở nói chung, cần tránh từ ngữ xưng hô có sắc thái suồng sã. Ví dụ, nếu cấp trên gọi cấp dưới là "thằng Ba", "con Tám" hoặc "con A lùn", "thằng B vẩu", "C lé",... thì tôi nghĩ là không nên. Vì những từ "thằng", "con" trong tiếng Việt có sắc thái suồng sã, bỗ bã và thiếu tôn trọng.
Hơn nữa, nêu những khiếm khuyết cơ thể của con người ra để ghép với tên gọi là vô văn hóa và thiếu nhân văn. (Tôi còn nhớ 2 câu ca dao của người Việt đã bị chê là không hay: "Chồng hen lấy vợ cũng hen/ Đêm nằm cò cử như kèn thổi đôi"; "Chồng còng lấy vợ cũng còng/ Nằm phản thì chật nằm nong thì vừa". Sở dĩ nó không hay vì thiếu tính nhân văn, lôi cái tật nguyền của người khác ra chế giễu là bất nhã).
Là người nghiên cứu về ngôn ngữ - văn hóa và thường giảng dạy, làm việc với người nước ngoài. Phó giáo sư thấy người nước ngoài đánh giá thế nào về cách xưng hô của người Việt nơi công sở?
PGS.TS Hoàng Kim Ngọc: Tôi thấy nhiều người nước ngoài thích cách xưng hô của người Việt. Một nhà báo phương Tây đã bày tỏ rằng, họ thấy thú vị về con người và văn hóa Việt thông qua từ xưng hô: "Dựa vào tuổi tác, mối quan hệ mà người Việt Nam lựa chọn cách gọi để vừa thể hiện sự tôn trọng, vừa thể hiện sự thân mật như với người trong gia đình, cách gọi này đem đến cho tôi cảm giác xã hội Việt Nam là một đại gia đình gắn bó", nhà báo phương Tây nhận xét.
Vậy theo bà, trong công sở nên xưng hô như thế nào cho hợp lý và thuận tiện cho công việc, nhất là với người trẻ tuổi cần sự tự tin, sáng tạo?
PGS.TS Hoàng Kim Ngọc: Tôi nghĩ giao tiếp trong công sở hay giao tiếp nói chung, chúng ta cứ tuân thủ các yêu cầu của chuẩn mực giao tiếp. Cụ thể như: lịch sự, lễ phép, đúng mực, đúng vai giao tiếp, đúng hoàn cảnh và có tính khuôn mẫu trong văn hóa người Việt... thì chắc chắn cuộc giao tiếp sẽ tốt đẹp.
Có lẽ, mỗi người nên biết cách "thay vai giao tiếp" trong những hoàn cảnh khác nhau. Một người có thể sắm nhiều vai giao tiếp với cùng một đối tượng.
Chẳng hạn, có hai cô gái là bạn thân của nhau, hàng ngày nói chuyện suồng sã "mày - tao". Nhưng nếu trong một hoàn cảnh công việc nhất định, chẳng hạn như trong một buổi họp chấm luận văn thạc sĩ. Một người là thí sinh, một người là chủ tịch hội đồng chấm thi thì vai giao tiếp trong hoàn cảnh ấy phải thay đổi. Lúc này không thể gọi nhau "mày - tao" hoặc "cậu - tớ" trước cả hội đồng chấm thi được.
Cũng như vậy, trong các buổi lễ trang trọng, nghi lễ, trên diễn đàn phải gọi "ông", "bà" xưng "tôi", trong họp Đảng thì gọi "đồng chí" xưng "tôi", khi đi tham quan ăn uống, giải trí thì có thể xưng hô thân mật...
Ngôn ngữ Việt thể hiện văn hóa Việt. Tiếng Việt với các đại từ xưng hô phong phú đã diễn tả được nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau vô cùng tinh tế. Cách xưng hô trong ngôn ngữ Việt đã đóng góp một phần lớn vào sự lành mạnh của gia đình và xã hội người Việt.
Xin trân trọng cảm ơn Phó giáo sư!
Theo Khampha
Nên buộc xưng hô "anh em" nơi công sở "Trong mức độ nào đó, người lớn tuổi phải chấp nhận cách xưng hô 'anh - em' với đồng nghiệp trẻ" Xưng hô thân mật như trong gia đình theo kiểu "bác bác - cháu cháu"... là chuyện thường tại công sở. Nhiều ý kiến cho rằng, cách xưng hô "gia đình hóa" giúp đồng nghiệp nhanh chóng gần gũi nhau hơn. Nhưng...