Coi chừng chết vì ăn hải sản
Đã có những người ăn hải sản xong thì ngừng tim, ngừng thở đột ngột và tử vong nhanh chóng do không cấp cứu kịp.
Các bác sĩ cảnh báo, dù rất bổ dưỡng nhưng hải sản có thể gây tử vong nếu người sử dụng có cơ địa dị ứng với loại thức ăn này.
Mỗi người có khả năng dị ứng với một hoặc nhiều loại thức ăn khác nhau, không ai giống ai ngay cả khi đó là những người có cùng huyết thống. Trong các loại thức ăn có nguy cơ gây dị ứng, nhóm thực phẩm giàu đạm như cá, thịt, tôm, cua, ghẹ, ngao, ốc… đứng đầu.
Dễ nhầm với ngộ độc thức ăn
Dị ứng thực phẩm đôi khi có biểu hiện rất mơ hồ như thái độ chán ghét thức ăn, thay đổi khí sắc sau khi ăn… Tình trạng này cũng hay xảy ra ở trẻ em khiến nhiều bậc cha mẹ thấy con mình không muốn ăn mà không thể tìm ra nguyên nhân, càng ép ăn trẻ càng chán ăn. Hiện tượng trên kéo dài lâu ngày có thể đưa đến tình trạng suy dinh dưỡng cho trẻ.
Các biểu hiện thường gặp nhất của dị ứng với hải sản là tình trạng tổn thương ở da như: nổi mề đay hoặc đỏ bừng mặt, phù mạch và tình trạng nặng của bệnh chàm, hoặc hắt xì, sổ mũi, ngứa mắt, ngứa mũi, tróc da tay chân, ngứa ngáy, phù môi phù mắt. Một số trường hợp gây ra các triệu chứng tiêu hóa như nôn, đau quặn bụng và tiêu chảy, tiêu ra máu, dễ nhầm với tình trạng rối loạn tiêu hóa hay nhiễm độc thức ăn.
Các biểu hiện về hô hấp thường nặng hơn như viêm mũi dị ứng, viêm phế quản dạng hen và phù nề thanh quản gây khó thở nhiều khi rất dữ dội. Trong một số ít trường hợp dị ứng thực phẩm có thể gây sốc phản vệ, ngưng tim, ngưng thở đột ngột và tử vong nhanh chóng nếu không cấp cứu kịp thời, nhất là ở những trẻ em dưới 2 tuổi.
Video đang HOT
Biểu hiện khi bị dị ứng
Mực: Những người tỳ thận dương hư biểu hiện bằng các triệu chứng như tay chân lạnh, sợ lạnh, hay bị cảm mạo phong hàn, sắc mặt tươi nhạt, dễ đổ mồ hôi ban ngày, ăn kém, chậm tiêu, đại tiện nát, di tinh, liệt dương, suy giảm ham muốn tình dục… thì không nên dùng. Nên kiêng ăn mực khi dùng những đơn thuốc có phụ tử, bạch liễm, bạch cập.
Ngao: Dù là loại thực phẩm rất có lợi cho những người bị tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, xơ vữa động mạch, ung thư, u phì đại tuyến tiền liệt lành tính… nhưng vì ngao có vị mặn, tính lạnh nên những người tỳ vị hư hàn, ăn kém, chậm tiêu, đại tiện lỏng nát không nên dùng.
Hàu: Là loại đồ biển rất giàu các axit amin cần thiết, các vitamin và nguyên tố vi lượng, rất thích hợp cho những người mắc các chứng bệnh thuộc thể âm hư, các bệnh nhân bị ung thư đã được hóa hoặc xạ trị liệu. Tuy nhiên, những người tỳ vị hư hàn, bị bệnh phong và các bệnh da liễu cấp hoặc mạn tính thì không nên dùng. Khi ăn hàu thì không được dùng tetracyclin.
Tôm biển: Những người bị dị ứng tôm, bị viêm da mẩn ngứa, có hội chứng âm hư, hỏa vượng biểu hiện bằng các triệu chứng người gầy, hay có cơn bốc hỏa, đau đầu, hoa mắt chóng mặt, có cảm giác sốt nhẹ về chiều, lòng bàn tay và bàn chân nóng, trong ngực rạo rực không yên, họng khô miệng khát, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn đỏ… thì không nên ăn. Ngoài ra, tôm biển không nên ăn cùng thịt dê và khi dùng thì không được uống vitamin C.
Cua biển: Những người tỳ vị hư yếu biểu hiện bằng các triệu chứng như dễ bị rối loạn tiêu hóa, ăn kém, hay đầy bụng, chậm tiêu, đại tiện phân lỏng nát, những người đang bị cảm mạo phong hàn, bị bệnh lý ngoài da có ngứa dai dẳng và những người dị ứng cua thì không được dùng. Cần chú ý không nên ăn cua cùng với thịt thỏ, rau kinh giới và quả hồng. Không bao giờ được ăn cua không còn tươi vì chất đạm trong cua rất dễ phân hủy và biến thành chất độc hại cho cơ thể.
Không ăn hải sản chưa được nấu chín kỹ
Tôm, cua, sò, hến chết có chứa nhiều vi khuẩn, không nên ăn vì có thể có độc tố, dễ gây ngộ độc. Không nên ăn hải sản và uống bia cùng lúc vì dễ bị bệnh gút. Không nên ăn hải sản và trái cây cùng lúc vì dễ bị đau bụng. Không ăn cùng với thực phẩm giàu vitamin C dễ gây ngộ độc. Không nên uống trà sau khi ăn hải sản bởi trà có chứa axit tannic có thể kết hợp với canxi trong thủy, hải sản để tạo thành canxi không hòa tan, lắng đọng trong cơ thể.
Do hải sản đã có sẵn tính hàn, nên tránh ăn kèm với những thực phẩm mang tính hàn khác như: rau muống, dưa chuột, dưa hấu, lê, những đồ uống có gas, nước lạnh… dễ gây cảm giác khó chịu, đầy bụng, khó tiêu.
Những người tỳ thận dương hư không nên ăn mực.
Theo VNE
Châm cứu: coi chừng châm xong cấp cứu
Châm cứu là phương pháp điều trị tốt trong chữa một số bệnh. Tuy nhiên, nếu thực hành châm cứu không cẩn thận, không đúng cách thì phương pháp này có thể gây rủi ro, tai biến.
Ảnh: Lê Kiên
Nhiễm trùng máu vì kim châm
Ngày 23/2, thông tin từ khoa hồi sức tích cực bệnh viện 175, TP.HCM cho biết đang điều trị bệnh nhân nam T.V.S., 38 tuổi, ngụ ở Bình Phước, nhập viện trong tình trạng bị nhiễm khuẩn huyết và tổn thương gan nặng. Người nhà anh S. cho biết, anh S. bị đau lưng từ lâu, dịp tết vừa rồi xuất hiện thêm tình trạng nhức mỏi chân trái. Nhiều lần đi phòng mạch tư chích thuốc giảm đau nhưng không khỏi, anh S. đã nghe theo chỉ dẫn của một người quen đi châm cứu ở một người chuyên châm cứu gần nhà. Khoảng hai giờ sau khi được châm cứu bằng kim, anh S. đau nhức dữ dội, chóng mặt, sốt cao, sức khoẻ biểu hiện nguy kịch... nên người nhà vội chuyển anh vào bệnh viện 175 cấp cứu.
Kết quả thăm khám, xét nghiệm phát hiện anh S. bị nhiễm trùng máu kéo theo tổn thương gan nặng, sốt cao và suy kiệt do viêm xương, viêm tuỷ xương tại đầu trên xương đùi trái, nhận định do châm cứu gây ra. Sau hơn mười ngày điều trị tích cực, dùng kháng sinh mạnh, truyền máu, huyết tương và nâng đỡ thể trạng... hiện sức khoẻ anh S. đã cải thiện.
Phải đúng cách, đúng bệnh
Theo ThS.BS Trần Văn Năm, phó viện trưởng viện Y dược học dân tộc TP.HCM, châm cứu là tên gọi của hai hình thức khác nhau: châm (dùng kim xuyên qua da của một vùng cơ thể nhất định, gọi là huyệt), và cứu (dùng lá khô của cây ngải cứu đốt lên hơ nóng trên huyệt). BS Năm nói: "Không chỉ người Việt ưa chuộng cách điều trị không bằng thuốc này mà có cả khách du lịch hoặc chuyên gia ngoại quốc khi đến Việt Nam. Điều đó chứng tỏ châm cứu có tác dụng trị bệnh thật sự".
BS Năm cho biết hiện phổ biến nhiều trường phái châm cứu như: thể châm (châm các huyệt trên cơ thể); nhĩ châm (châm các huyệt trên loa tai); diện châm (châm hoặc ấn các huyệt trên mặt); túc châm, thủ châm, tỵ châm...; châm tê, trường châm, mãng châm, chôn chỉ... Mỗi loại châm cứu đều có một hiệu quả nhất định trên một số dạng bệnh lý khác nhau.
Nghiên cứu của y học hiện đại đã ghi nhận châm cứu giúp phục hồi hệ kinh - mạch và tăng khả năng phòng vệ của cơ thể (sức đề kháng) nên có thể phòng và trị được bệnh. Châm cứu áp dụng điều trị giảm đau trong các loại bệnh lý như: thoái hoá khớp, bệnh đĩa đệm cột sống mức độ nhẹ, đau sau chấn thương, đau đầu migrain, đau do co thắt cơ trơn...; phục hồi liệt (di chứng tai biến mạch máu não, sau chấn thương, liệt thần kinh số 7 ngoại biên...); rối loạn giấc ngủ, căng thẳng (stress); tăng cường dinh dưỡng mô, cơ, da và tổ chức dưới da (dùng trong thẩm mỹ); tăng sức đề kháng, hỗ trợ cắt cơn thiếu thuốc (thuốc lá, thuốc gây nghiện...) "Để châm cứu có hiệu quả tốt nhất, người thầy thuốc phải được đào tạo tốt, tự tin, có sức khoẻ, tập trung khi thao tác, bảo đảm nguyên tắc vô trùng y cụ. Đối với người bệnh cũng phải tin tưởng, tâm trạng thoải mái, không quá lo sợ, không ăn quá no, quá đói", BS Năm nói.
Ai không nên châm cứu?
TS.DS Lê Thị Hồng Anh, thầy thuốc ưu tú, Trung ương hội Đông y Việt Nam cho biết mặc dù châm cứu tỏ ra rất hiệu quả trong điều trị một số loại bệnh, nhưng nếu không cẩn thận dễ gây ra những rủi ro. Nếu bác sĩ châm thẳng vào dây thần kinh, có thể dẫn đến liệt, teo cơ... Giống như kim tiêm, kim châm cứu cũng có thể lây bệnh nếu dùng chung mà không được hấp, tiệt trùng đúng cách.
Khi châm kim, nếu người bệnh có cảm giác rát buốt, bác sĩ phải rút kim ra ngay lập tức bởi nếu châm sai vào những huyệt nguy hiểm, châm quá sâu, có thể gây tử vong. "Không phải ai cũng có thể chữa bệnh bằng phương pháp châm cứu. Nếu thiếu hiểu biết và chưa có kinh nghiệm thì châm cứu có thể gây nhiều nguy hiểm. Để châm cứu chữa bệnh đạt hiệu quả, người bệnh chỉ nên đến bệnh viện, viện châm cứu đã có xác nhận của bộ Y tế", DS Anh lưu ý.
Theo BS Năm, châm cứu có tác dụng tốt trong các trường hợp bệnh lý có căn nguyên rối loạn chức năng, các bệnh lý gây đau do thần kinh, co thắt cơ vân - cơ trơn, do liệt vận động, một số bệnh lý viêm không do vi trùng mạn tính. Những trường hợp sau cần cẩn thận hoặc chống chỉ định châm cứu: người bệnh căng thẳng, sợ kim; tránh một số huyệt nhạy cảm khi người bệnh có thai; da chai, sẹo hoặc đang viêm nhiễm; tránh các vùng có mạch máu lớn, bệnh lý rối loạn đông máu, hoặc đang dùng thuốc kháng đông máu... "Người bệnh không hợp tác cũng không nên châm cứu vì kết quả sẽ kém", BS Năm nói.
Theo VNE
Búp bê tình dục: Coi chừng ham đồ giả mà quên... "đồ thật" Việc dùng đồ chơi tình dục còn có thể gây ra tình trạng "nghiện", chỉ thích quan hệ với "búp bê" mà xa lánh người thật, vi người thật không đap ứng manh được như "búp bê". Đô chơi tinh duc (sextoy) la nhưng dung cu đươc sư dung đê thuc đây sư vui thich tinh duc. Cac dung cu nay đươc thiêt...