Có thể đáp ứng miễn dịch ở bệnh nhân SARS vận dụng cho bệnh nhân COVID-19 ?
Hai dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp nguy hiểm này xảy ra ở hai thời điểm cách nhau 17 năm nhưng đều do một chủng vi-rút coronavirus gây ra với hai tác nhân khác nhau (vi-rút SARS-CoV năm 2002 đối với dịch SARS và vi-rút SARS-CoV-2 năm 2019 đối với dịch COVID-19).
Do đó, về lý luận thì đáp ứng miễn dịch của những người mắc 2 dịch bệnh này sẽ có những điểm tương đồng.
Bài học đáp ứng miễn dịch ở bệnh nhân SARS có thể vận dụng cho bệnh nhân COVID-19 ?
Các đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng của người nhiễm SARS-CoV-2 tiếp tục được làm sáng tỏ qua các công trình nghiên cứu. Khi số bệnh nhân COVID-19 hồi phục gia tăng, một vấn đề quan trọng đã làm dấy lên mối lo ngại lớn trong thời gian qua đó là liệu những bệnh nhân hồi phục từ COVID-19 có bị tái nhiễm không? Câu trả lời sẽ rất hữu ích cho việc theo dõi bệnh nhân trong giai đoạn hồi phục cũng như công tác kiểm soát dịch.
Về sinh bệnh học, tác nhân gây bệnh của đại dịch COVID-19 (SARS-CoV-2) dường như tương tự với tác nhân SARS-CoV của dịch SARS ở một số đặc điểm. Ngoài ra, một nghiên cứu trong phòng thí nghiệm gần đây cho thấy kháng thể trung hòa của bệnh nhân SARS giai đoạn hồi phục có thể ngăn chặn vi-rút SARS-CoV-2 xâm nhập vào các tế bào đích, hiện tượng này ngụ ý có hiện tượng kháng thể bảo vệ chéo giữa hai loại vi-rút này. Như vậy, khả năng miễn dịch bảo vệ tiềm năng chống tái nhiễm với SARS-CoV-2 có thể được chia sẻ từ một số tính năng phổ biến trong thời kỳ hồi phục của SARS-CoV.
Các kháng thể bảo vệ đặc hiệu, bao gồm Immunoglobulin G (IgG) và kháng thể trung hòa (NAbs), được sản xuất bởi các tế bào B sau khi bị nhiễm vi-rút, có thể ngăn chặn vi-rút xâm nhập vào tế bào chủ và bảo vệ chống lại tái nhiễm vi-rút.
Một nghiên cứu đoàn hệ về SARS-CoV ở bệnh nhân trong giai đoạn hồi phục (56 trường hợp, từ một bệnh viện Cảnh sát Bắc Kinh, Trung Quốc) cho thấy các kháng thể IgG và NAbs có mối tương quan cao, các kháng thể này đạt nồng độ cực đại vào tháng thứ 4 sau khi phát bệnh và giảm dần sau đó (hình). Mặc dù hiệu giá kháng thể giảm rõ rệt sau tháng thứ 16, nhưng IgG và NAbs vẫn có thể phát hiện ở tất cả các bệnh nhân trong suốt 2 năm theo dõi, ngoại trừ ở lần khám cuối cùng (vào tháng 24) có 11,8% bệnh nhân chuyển sang âm tính. Kéo dài thời gian theo dõi lên 3 năm thì IgG và NAbs vẫn có thể được phát hiện lần lượt ở 74,2% và 83,9% bệnh nhân vào tháng thứ 36.
Video đang HOT
Hiệu giá kháng thể Immunoglobulin G (IgG) và kháng thể trung hòa (NAbs) ở bệnh nhân SARS theo thời gian
Một nghiên cứu khác (176 trường hợp, bệnh viện được chỉ định chuyên điều trị SARS ở Sơn Tây, Trung Quốc) cho thấy kết quả tương tự, có tới 11,8% mẫu huyết thanh có IgG dương tính vào ngày thứ 7 sau khi xuất hiện triệu chứng SARS-CoV. Tỷ lệ dương tính tăng dần, đạt 100% vào ngày thứ 90 và không thay đổi cho đến ngày 200. Khoảng 93,9% và 89,6% số bệnh nhân này có thể được phát hiện sau 1 và 2 năm (tương ứng).
Đáng chú ý, 3 năm sau, có đến 50% bệnh nhân vẫn còn IgG đặc hiệu SARS-CoV. Một nghiên cứu với thời gian theo dõi dài nhất (23 trường hợp, Bắc Kinh, Trung Quốc) cho thấy có 8,7% bệnh nhân hồi phục được duy trì nồng độ IgG đặc hiệu với SARS-CoV. Những công trình nghiên cứu này cho thấy rằng các đáp ứng miễn dịch của các kháng thể đặc hiệu được duy trì ở hơn 90% bệnh nhân SARS-CoV đã hồi phục trong 2 năm.
Kể từ khi dịch SARS xảy ra cách đây 17 năm, kháng thể IgG đặc hiệu với SARS-CoV đã được sử dụng ở hầu hết các bệnh nhân sống sót, điều này không đủ để bảo vệ chống lại thách thức với nhiễm SARS-CoV-2. Tuy nhiên, vắc-xin SARS-CoV thử nghiệm trước đây và kháng thể trung hòa đặc hiệu với SARS có thể là một lựa chọn điều trị và phòng ngừa mới cho COVID-19.
Những bài học kinh nghiệm từ dịch SARS sẽ có một số tác động tích cực đối với việc điều trị, quản lý và giám sát bệnh nhân COVID-19.
Ngoài ra, không phải tất cả bệnh nhân mắc SARS-CoV đều có kháng thể đặc hiệu trong giai đoạn đầu sau khi hồi phục (chỉ 11,8% vào ngày 7 và đạt 100% vào ngày 90), điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát hiện các nồng độ kháng thể đặc hiệu với COVID-19 người bệnh. Những bệnh nhân có nồng độ thấp của kháng thể có thể không hiệu quả trong việc thanh thải SARS-CoV-2, nên xảy ra hiện tượng dương tính lại (tái hoạt) sau khi đã âm tính trong giai đoạn hồi phục.
Những bài học kinh nghiệm từ dịch SARS sẽ có một số tác động tích cực đối với việc điều trị, quản lý và giám sát bệnh nhân COVID-19.
Nơi trú ngụ lý tưởng của SARS-CoV-2
Khi đến nơi đông người, công viên hay nhà vệ sinh công cộng, mối lo về việc lây nhiễm virus SARS-CoV-2 lớn hơn.
Virus SARS-CoV-2 có tính lây lan mạnh. Ngoại trừ đường lây qua giọt b.ắn khi nói chuyện, điều làm mọi người lo lắng là khả năng tồn tại và lây nhiễm qua các bề mặt khác nhau của virus.
Nghiên cứu khoa học đăng trên tạp chí Th e New England Journal of Medicine và Lancet cho thấy SARS-CoV-2 có thể được phát hiện sau 4 giờ trên mặt đồng, 24 giờ trên bìa carton, 48 giờ trên kính và tới 72 giờ trên bề mặt nhựa và thép không gỉ. Chính vì vậy, các biện pháp đề phòng sự lây lan của virus cần chú trọng tới việc vệ sinh các bề mặt thường xuyên, rửa tay, đeo khẩu trang, tránh đi nơi đông người.
Khi chúng ta phải đến nơi đông người, công viên hay nhà vệ sinh công cộng, mối lo về việc lây lan virus lớn hơn.
Gần đây, trong một nghiên cứu trên tạp chí y khoa MedRxiv, các nhà khoa học kiểm tra sự hiện diện của SARS-CoV-2 qua mẫu trên bề mặt khác nhau trong các phòng bệnh 3 giường: 37 mẫu từ nhà vệ sinh, 34 mẫu từ các bề mặt khác nhau trong phòng. Trong thời gian thu thập kết quả, khoảng 60% số giường bệnh có bệnh nhân Covid-19.
Việc đề phòng lây lan virus ở nơi công cộng là rất quan trọng. Ảnh: Mai Khanh.
Kết quả cho thấy các bề mặt bị nhiễm virus là cửa chính phòng bệnh, cửa nhà vệ sinh, bồn cầu, vòi khoá nước. Điều thú vị là nghiên cứu không phát hiện virus trong không khí trong phòng bệnh. Tuy nhiên, chúng ta lại phát hiện virus trong không khí ngoài hành lang phòng bệnh.
Từ các nghiên cứu trên, ta có thể thấy việc đề phòng lây lan virus ở nơi công cộng là rất quan trọng. Một cách đơn giản là hãy dùng khăn thấm cồn để lau các bề mặt thật kỹ. Ví dụ, khi đi tập thể dục trong công viên, bạn hãy vệ sinh các tay nắm cửa, thanh sắt trước khi cầm để tập. Với nhà vệ sinh công cộng, khi mở vòi nước rửa tay, bạn nên dùng khăn để tắt vòi khoá nước và mở cửa. Lưu ý, bạn không vứt khăn giấy bừa bãi ra ngoài đường, hãy bỏ vào thùng rác.
Cùng với việc thực thi giãn cách xã hội, tăng cường sức khoẻ thông qua ăn uống sạch sẽ, tập thể dục điều độ, việc vệ sinh các bề mặt, đặc biệt ở nơi công cộng cũng sẽ góp phần bảo vệ bản thân và ngăn ngừa sự lây lan của virus SARS-CoV-2.
Tài liệu tham khảo
https://www.nih.gov/news-events/news-releases/new-coronavirus-stable-hours-surfaces
https://www.thelancet.com/journals/lanmic/article/PIIS2666-5247(20)30003-3/fulltext
https://www.medrxiv.org/content/10.1101/2020.04.03.20052175v1.full.pdf
Loại ung thư nào khiến bệnh nhân dễ t.ử v.ong nhất khi mắc Covid-19? Theo một nghiên cứu được liên kết thực hiện bởi nhóm các nhà khoa học đến từ Trung Quốc, Singapore và Mỹ, các bệnh nhân ung thư mắc Covid-19 có nguy cơ t.ử v.ong cao gấp 3 lần người bình thường. Bên cạnh đó, bệnh nhân ung thư cũng có rủi ro cao trong việc gặp các biến chứng nặng và cần phải...