Cổ phiếu ngành điện hưởng lợi nhờ việc mở cửa kinh tế trở lại
Nhóm cổ phiếu ngành điện dự báo sẽ được hưởng lợi nhờ mức tiêu thụ điện toàn quốc gia tăng cũng như việc thiếu cung than tạm thời đã đẩy giá trên thị trường phát điện cạnh tranh lên cao.
Theo báo cáo phân tích từ Công ty Chứng khoán SSI, nền kinh tế mở của trở lại với phương châm “sống chung an toàn với COVID-19″ đã giúp hoạt động sản xuất-kinh doanh phục hồi rõ nét. Theo đó, nhóm cổ phiếu ngành điện được hưởng lợi nhờ mức tiêu thụ điện toàn quốc gia tăng cộng thêm việc thiếu cung than tạm thời đã đẩy giá trên thị trường phát điện cạnh tranh lên cao.
Giá phát điện cạnh tranh tăng 37%
Báo cáo từ Tổng cục Thống kê cho biết trong quý I/2022, kinh tế Việt Nam phục hồi với “gam màu sáng” nhờ việc Chính phủ quyết liệt khôi phục và mở cửa các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý 1 ước tính tăng 5,03% so với cùng kỳ năm trước (khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,4%; công nghiệp và xây dựng tăng 6,38%. khu vực dịch vụ tăng 4,58%).
Trên đà tăng trưởng kinh tế đó, nhóm phân tích của SSI chỉ ra mức tiêu thu điện toàn quốc quý 1 đạt 63 tỷ kwh và tăng 7,8% so với cùng kỳ (trong bối GDP trong quý 1 tăng 5,03%) đồng thời dự báo tiêu thụ điện trong về cuối năm sẽ tiếp tục hồi phục và tăng khoảng 9,2% so với cùng kỳ.
Mặt khác, giá trung bình trên thị trường phát điện cạnh tranh (giá CGM) đã tăng 37% so cùng kỳ. Tuy nhiên về trung hạn, nhóm phân tích có quan điểm thận trọng và dự báo giá CGM cả năm 2022 sẽ tăng khoảng 30% so với cùng kỳ (thấp hơn so với trung bình quý 1), do hiện tượng La Nina (nước biển lạnh đi so với bình thường ) có thể quay lại trong quý 2.
Bởi, hệ thống các nhà máy thủy điện thường có chi phí và giá bán trung bình thấp hơn so với nhiệt điện. Và, sản lượng từ nhà máy thủy điện tăng có thể làm hạ nhiệt mức tăng giá CGM. Tuy nhiên. SSI cũng để ngỏ khả năng, nếu nhu cầu tiêu thụ điện tăng mạnh thì diễn biến giá CGM có thể vẫn thuận lợi.
Dự báo triển vọng từ nay đến cuối năm, SSI đánh giá: “Trên bình diện quốc tế, trường hợp giá nhiên liệu (dầu khí và than nhiệt) tiếp tục đi lên, áp lực lạm phát gia tăng khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại. Điều điền có thể ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu và tăng trưởng GDP của Việt Nam, kéo theo mức tiêu thụ điện sẽ bị giảm và kịch bản xấu nhất – tăng trưởng GDP của Việt Nam là 5%-6% và tăng trưởng tiêu thụ điện toàn quốc là 7%/năm (so với kịch bản cơ sở là 6%-7% về tăng trưởng GDP và 9.2%/năm về tăng trưởng tiêu thụ điện).”
Lợi nhuận tăng trưởng trở lại
Theo SSI, các yếu tố trên đang góp phần hỗ trợ cho của các nhà máy điện tránh khỏi tăng trưởng âm trước đó, cụ thể là các mã chứng khoán NT2, POW, HND, QTP.
Trên thị trường chứng khoán, giá cổ phiếu NT2 đang ở mức 24.300/cổ phiếu; POW là 10.500 đồng/cổ phiếu; HND là 18.600 đồng/cổ phiếu và QTP là 18.500 đồng/cổ phiếu (phiên ngày 19/4).
Video đang HOT
Cụ thể, mã NT2 (Công ty Cổ phần Điện lực Dầu khí Nhơn Trạch) ước tính trong quý 1, sản lượng tăng nhẹ 3% so với cùng kỳ (khoảng 980 triệu kwh) và lợi nhuận sau thuế tăng 24% (khoảng 142 tỷ đồng). SSI kỳ vọng sang quý 2, sản lượng điện của NT2 đạt khoảng 955 triệu kwwh và lợi nhuận sau thuế đạt trên 130 tỷ đồng (gấp 5 lần quý 2/2021 là 24,5 tỷ đồng).
SSI đưa ra luận điểm đầu tư, “sau khi trả hết dư nợ, NT2 không chịu ảnh hưởng từ lãi suất cho vay tăng và lỗ chênh lệch tỷ giá. Điều này có thể hỗ trợ cổ tức và giá mục tiêu 1 năm l khuyến nghị là 26.800 đồng/cổ phiếu.”
Với mã HND (Công ty cổ phần Nhiệt điện Hải Phòng), lợi nhuận sau thuế quý 1 ghi nhận mức tích cực 258 tỷ đồng (so quý1/2021 có mức lỗ 11 tỷ đồng ). Theo SSI, kết quả này có được nhờ sản lượng phát điện và giá CGM cải thiện cộng thêm chi phí lãi vay giảm (nợ vay giảm giúp HND tránh được lãi suất tăng ngoài dự đoán trong bối cảnh áp lực lạm phá). Nhóm phân tích của SSI đưa ra khuyến nghị trung lập đối với HND có giá mục tiêu 1 năm là 20.600 đồng/cổ phiếu.
Bên cạnh đó, QTP (Công ty Cổ phần Nhiệt điện Quảng Ninh) cũng dự kiến mức lợi nhuận trong quý 1 có sự cải thiện khá tốt. Trước đó, SSI kỳ vọng QTP sẽ chứng kiến sự hồi phục trong cả năm 2022 về sản lượng phát điện tăng 12%, doanh thu tăng 24,2% và lợi nhuận sau thuế tăng 27,6%, trên cơ sở đó giá mục tiêu 1 năm duy trì tại mức 23.300 đồng/cổ phần.
Riêng mã POW (Tổng Công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam) đã công bố lợi nhuận trước thuế sơ bộ quý 1 đạt là 751 tỷ đồng (tăng 11% so cùng kỳ). Mức tăng trưởng này tốt hơn kỳ vọng của giới đầu tư trước đó với những quan ngại về sự cố tại Vũng Áng làm cản trở tăng trưởng lợi nhuận của công ty.
Trên cơ sở giá trên thị trường phát điện cạnh tranh tăng, chi phí lãi vay giảm, khả năng chi phí bảo dưỡng giảm, lợi nhuận trước thuế trong quý 1 tránh được tăng trưởng âm, nhóm phân tích của SSI tính toán giá mục tiêu 1 năm của POW khoảng 17.100 đồng/cổ phiếu.
Các bước đi cần thiết để "cải tổ" lại thị trường chứng khoán, trái phiếu DN
Các hoạt động chấn chỉnh thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) thời gian qua là hết sức cần thiết, giúp kênh huy động vốn cho nền kinh tế thị trường lành mạnh hơn.
Thị trường cần tăng trưởng bền vững
Trao đổi với Báo điện tử Chính phủ, chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh đánh giá: Thị trường trái phiếu các DN đã niêm yết có các quy định khá đầy đủ trong khi vẫn còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện đối với việc phát hành trái phiếu của DN chưa niêm yết.
Từ năm 2019 đến nay, thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) phát triển mạnh mẽ ngoài dự đoán. Theo báo cáo của Công ty chứng khoán SSI cho biết, tổng giá trị phát hành TPDN năm 2021 đạt 723.000 tỉ đồng. Quy mô thị trường TPDN tăng mạnh từ 4,93% GDP vào năm 2017 lên đến 16,6% GDP năm 2021. SSI đánh giá, dù kênh tín dụng vẫn là kênh huy động vốn chính của các DN nhưng kênh chứng khoán đang tăng tốc mạnh mẽ, quy mô thị trường cổ phiếu và TPDN tăng nhanh từ mức 68% năm 2020 lên mức tương đương 88% (2021) so với tổng dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế.
Chuyên gia kinh tế Đinh Trọng Thịnh: Quy định phát hành trái phiếu của các DN chưa niêm yết còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện - Ảnh: VGPP.
Trong tổng lượng TPDN lưu hành tại thời điểm cuối năm 2021 đạt khoảng 1,4 triệu tỷ đồng, tương đương tốc độ tăng trưởng bình quân 46%/năm trong giai đoạn từ 2017-2021.
Các DN bất động sản là nhóm phát hành nhiều nhất với 318.200 tỷ đồng, tăng 66,3% so với năm 2020 và chiếm 44% tổng lượng phát hành năm 2021, tiếp đến là lĩnh vực ngân hàng, còn các lĩnh vực còn lại rất ít.
Theo ông Đinh Trọng Thịnh, phát triển thị trường TPDN nhằm làm giảm sự phụ thuộc của DN vào tín dụng ngân hàng, tuy nhiên, cần hết sức lưu ý đến tốc độ tăng trưởng cũng như tỷ trọng của thị trường này. Đáng chú ý, trong số TPDN có lãi suất cao, có một tỷ lệ đáng kể trái phiếu thuộc diện "3 không": Không bảo lãnh, không xếp hạng tín nhiệm, không tài sản đảm bảo (TSĐB).
"Bên cạnh đó, chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận, thị trường tăng trưởng quá nhanh, trong khi các chính sách quản lý chưa đủ bao phủ, việc điều chỉnh chỉnh sách chưa theo kịp diễn biến thực tế, do đó, những động thái chấn chỉnh mạnh mẽ vừa qua của Chính phủ cũng là rất cần thiết", chuyên gia Đinh Trọng Thịnh trao đổi.
Giám sát chặt, ngăn chặn từ sớm
Có cùng quan điểm, chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu cho rằng các hoạt động mua bán lại TPDN trên thị trường thứ cấp lại chưa có quy định chặt chẽ.
"Việc xử lý các cá nhân vi phạm liên quan đến các vụ việc tại Tập đoàn FLC hay Tân Hoàng Minh là cần thiết, nhưng sẽ tốt hơn nếu có các cơ chế giám sát đủ chặt, ngăn chặn từ sớm các đối tượng có ý định lũng đoạn thị trường", vị chuyên gia này nhận định.
Thời gian qua, các cơ quan quản lý cũng đưa nhiều cảnh báo, ban hành một số cơ chế chính sách quản lý chặt chẽ hơn nhằm hạn chế tình trạng trục lợi bất chính từ kẽ hở pháp lý, gây rủi ro thị trường.
Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành Thông tư 16, ngày 10/11/2021 quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán TPDN. Trong đó, có một số quy định chặt chẽ hơn.
Ví dụ như, "tổ chức tín dụng mua, bán TPDN phải có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và phải ban hành quy định nội bộ về mua, bán TPDN phù hợp với quy định tại Thông tư này và các quy định của pháp luật có liên quan";
"Tổ chức tín dụng chỉ được mua TPDN khi tổ chức tín dụng đó có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% theo kỳ phân loại gần nhất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động đối với tổ chức tín dụng trước thời điểm mua TPDN"...
Còn Bộ Tài chính cũng đang xây dựng Nghị định sửa đổi Nghị định số 153/2020/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định về chào bán, giao dịch TPDN riêng lẻ tại thị trường trong nước và chào bán TPDN ra thị trường quốc tế.
Chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu: Khao khát chung của thị trường là phải minh bạch, việc mạnh tay chấn chỉnh, tăng cường hiệu lực giám sát thị trường.
Tăng cường hiệu lực kiểm toán
Chuyên gia Đinh Trọng Thịnh cho rằng, những vi phạm về tình hình tài chính của nhiều DN thiếu minh bạch thời gian qua một phần do nhiều báo cáo kiểm toán chưa cảnh báo rủi ro đầy đủ với các nhà đầu tư, kể cả với các DN bị "tuýt còi" vừa qua.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của các công ty xếp hạng tín nhiệm TPDN, chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu cho rằng đây như "lớp phòng thủ" quan trọng trước các rủi ro về thông tin sai lệch mà nhà đầu tư phải đối mặt.
Ông Nguyễn Trí Hiếu cho biết hiện mới có 2 DN ở Việt Nam đủ điều kiện thực hiện cung cấp dịch vụ định mức tín nhiệm là FiinRatings và Công ty CP Xếp hạng Sài Gòn Phát Thịnh. Và sự phát triển của hệ thống đánh giá tín nhiệm sẽ giúp các thành viên thị trường đánh giá rủi ro khi lựa chọn mua các loại TPDN.
Chia sẻ tâm lý lo ngại và cả thiệt hại của nhiều nhà đầu tư khi lãnh đạo một số DN và các đối tượng bị bắt liên quan đến phát hành TPDN, chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu cho rằng những động thái chấn chỉnh thị trường của Chính phủ là hết sức cần thiết để lành mạnh hoá thị trường trong dài hạn, hướng tới các thông lệ chung của các nước phát triển.
Vị chuyên gia này nhận định, với các yếu tố nền tảng tốt, về lâu dài thị trường chứng khoán cũng như TPDN vẫn là kênh huy động vốn quan trọng của các DN Việt Nam.
"Khao khát chung của thị trường là phải minh bạch, việc mạnh tay chấn chỉnh, tăng cường hiệu lực giám sát thị trường, có tác động tâm lý răn đe rất tốt khiến các đối tượng kỳ vọng về hành vi thao túng trong tương lai e ngại hơn.
Nếu nhìn lại các chính sách của Chính phủ: Chính sách hỗ trợ DN, người dân bị thiệt hại do COVID-19, các chính sách về tín dụng (ưu tiên vốn cho sản xuất kinh doanh thực), miễn giảm thuế thì chúng ta sẽ thấy các quan điểm có tính hệ thống nhất quán của Chính phủ.
Không làm một cách chung chung mà có chọn lọc, kiến tạo sân chơi bình đẳng, khuyến khích ưu tiên DN, người kinh doanh lành mạnh, hoạt động thực chất, nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật", chuyên gia Nguyễn Trí Hiếu bày tỏ.
Nhiều áp lực tăng trưởng cho doanh nghiệp xi măng Nhu cầu trong nước phục hồi song giá nguyên liệu đầu vào tăng cao đang gây áp lực cho các doanh nghiệp xi măng trong nước. Cùng lúc đó, sản lượng xuất khẩu có thể chững lại khiến áp lực tăng trưởng cho các doanh nghiệp này ngày càng gia tăng. Công nhân Công ty cổ phần xi măng La Hiên - VVMI...