Cố đô Huế – Vùng đất của những di sản văn hóa vô giá
Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ gần như nguyên vẹn những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam.
Trong gần 400 năm (1558-1945), Huế đã từng là Thủ phủ của 9 đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, là Kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến Kinh đô của quốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn.
Bởi vậy, nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích thiên nhiên thợ trời khéo tạc…
Cố đô Huế ngày nay vẫn còn lưu giữ gần như nguyên vẹn những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam.
Tiêu biểu nhất là Quần thể Di tích Cố đô Huế đã được sánh ngang hàng với các kỳ quan hàng ngàn năm tuổi của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hóa thế giới của UNESCO, được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới ngày 11/12/1993.
Đó là Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử cấm thành Huế, ba tòa thành lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực của sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và Tây; được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ tú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh thành Huế – đó là núi Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Giã Viên.
Nằm giữa lòng Huế, bên bờ Bắc của con sông Hương chảy từ Tây sang Đông là hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền Nguyễn. Ba tòa thành – Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành – lồng vào nhau và được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc.
Các công trình này là kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và Tây, được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên với núi Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh, trong một sự hòa hợp đến kỳ lạ.
Cột cờ Kinh thành Huế là một di tích kiến trúc thời nhà Nguyễn, nằm chính giữa mặt nam của Kinh thành Huế. (Nguồn: Vietnam )
Xuyên suốt cả ba tòa thành là con đường Thần đạo, với những công trình kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế gồm Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung. Hai bên Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, hòa lẫn với khung cảnh thiên nhiên.
Dọc hai bên bờ sông Hương là lăng tẩm của các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức…mang đặc trưng kiến trúc Việt Nam. Mỗi lăng tẩm lại mang một phong cách khác nhau, tùy thuộc vào tính cách của từng vị vua, tạo nên một bức tranh phong phú và đa dạng.
Cố đô Huế cũng là xứ sở của những khu vườn ngự danh tiếng như Ngự Viên, Thư Quang, Thường Mậu, Trường Ninh, Thiệu Phương…Và kiến trúc những khu vườn cung đình cũng dần ảnh hưởng, lan tỏa sang những khu vườn trong dân gian, tạo nên một kiến trúc nhà vườn đặc thù của Cố đô.
Những công trình kiến trúc ở Cố đô như hòa lẫn vào thiên nhiên, tạo nên những tiết tấu diệu kỳ. (Nguồn: Vietnam )
Video đang HOT
Được xây theo luật “dịch lý” và “phong thủy”, nhà vườn Huế là tập hợp của một hệ thống kiến trúc sắp xếp theo chiều Bắc-Nam. Tuy rộng hẹp khác nhau, nhưng nhà nào cũng có kiến trúc tổng thể giống nhau, bao gồm: cổng, ngõ, bình phong, hòn non bộ, bể cạn, sân, nhà rường. Một số nhà vườn hiện nay còn nguyên vẹn, tiêu biểu như nhà vườn An Hiên, nhà vườn công chúa Ngọc Sơn, Lạc Tịnh, nhà vườn Ý Thảo.
Là kinh đô của triều địa phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, lễ hội và âm nhạc ở vùng kinh sư này cũng phát triển vô cùng phong phú và mang đậm phong cách dân tộc.
Triều đình có lễ Tế Giao, Tế Xã Tắc, lễ Nguyên Đán, lễ Đoan Dương, lễ Vạn Thọ, lễ Đại triều, lễ Thường triều, lễ Ban Sóc, lễ Truyền Lô, lễ Duyệt Binh. Dân gian cũng đa dạng các loại hình lễ hội: lễ hội điện Hòn Chén, lễ hội Cầu Ngư, lễ hội vật Sình, lễ hội đua ghe, lễ hội tế đình, tế chùa, tế miếu… gắn kết với các loại hình lễ hội lại là những hình thức âm nhạc lễ nghi dân gian muôn màu muôn vẻ.
Về âm nhạc, Nhã nhạc Cung đình- loại hình âm nhạc tao nhã, thiêng liêng thường dùng để trình diễn trong các dịp đại lễ trang trọng của triều đình – đã được phát triển lên đến đỉnh cao tại Huế dưới thời nhà Nguyễn. Theo đánh giá của UNESCO, trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia.
Tái hiện Lễ Ban sóc triều Nguyễn tại Ngọ Môn Huế. (Ảnh: Tường Vi/TTXVN)
Cùng tồn tại với dòng âm nhạc mang tính lễ nghi, loại hình âm nhạc mang tính giải trí tiêu khiển của xứ Huế cũng được thế giới biết đến như một điển hình mang đậm bản sắc riêng của một vùng văn hóa, mộc mạc thuần khiết, đặc thù không pha trộn. Đó là những điệu múa Huế, những vở tuồng Huế, những bài ca Huế mà ngày nay đã trở thành những món ăn tinh thần không thể thiếu trong một chuyến tham quan Cố đô của du khách mọi miền.
Tính đến thời điểm này, Cố đô Huế sở hữu tới 7 di sản được UNESCO công nhận là di sản thế giới và di sản khu vực, trong đó có 5 di sản của riêng Huế gồm Quần thể Di tích Cố đô Huế (1993), Âm nhạc cung đình Việt Nam-Nhã nhạc (2003), Mộc bản triều Nguyễn (2009), Châu bản triều Nguyễn (2014), Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (2016); và 2 di sản chung với các địa phương khác: Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ (2016), Nghệ thuật Bài Chòi Trung Bộ (2017). Ngoài ra, toàn tỉnh hiện có gần 1.000 di tích, trong đó có 3 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 88 di tích cấp quốc gia và 90 di tích cấp tỉnh.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa Huế đã nhận xét rằng, Huế là một bài thơ kiệt tác về kiến trúc đô thị, là một thành phố độc quyền giữ trong mình những kho tàng vô giá, một bảo tàng kỳ lạ, độc đáo của nền văn hoá vật chất và tinh thần của Việt Nam.
Những năm qua, thành phố Huế đã xây dựng nhiều chương trình hấp dẫn để khai thác hiệu quả di sản, tạo nhiều trải nghiệm mới cho ngành “công nghiệp không khói.”
Năm 2025, Huế dự kiến sẽ phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ có lợi thế và giá trị gia tăng cao; huy động nguồn lực đầu tư phát triển du lịch; đồng thời quảng bá hình ảnh và khẳng định thương hiệu “Huế – Kinh đô xưa trải, nghiệm mới,” “Huế – điểm đến của 8 di sản thế giới,” “Huế – Kinh đô của lễ hội,” “Huế – Kinh đô ẩm thực” và “Huế – Kinh đô áo dài.” Thành phố cũng dự kiến mở rộng phát triển các loại hình du lịch di sản gắn với Quần thể di tích Cố đô Huế; đẩy mạnh xã hội hóa các sản phẩm, dịch vụ tại Đại Nội và các điểm di tích trên địa bàn.
Cột cờ Nam Định một trong bốn Kỳ đài cổ xưa nhất Việt Nam
Cột cờ Nam Định (tỉnh Nam Định) được xây dựng đầu thế kỷ 19, cùng thời với Cột cờ Hà Nội và có kiến trúc khá tương đồng.
Công trình kiến trúc cổ này được xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia từ năm 1962.
Cột cờ Nam Định là công trình quan trọng của Thành cổ Nam Định xưa.
Cột cờ Nam Định, thời xưa gọi là Kỳ đài Thành Nam, là một trong bốn cột cờ cổ xưa nhất cả nước, được xây dựng vào đầu thời Nguyễn cùng với Kỳ đài Kinh thành Huế (1807); Kỳ đài Hà Nội (1812); Kỳ đài Thành Bắc Ninh (1838).
Theo tài liệu lưu trữ tại Bảo tàng tỉnh Nam Định, Cột cờ Nam Định được khởi dựng từ năm Gia Long 11 (1812) đến năm Quý Mão (1843) hoàn thành. Đây là công trình quan trọng của Thành cổ Nam Định, nằm ở phía Nam nội thành, trước Điện Kính Thiên (nay là Chùa Vọng Cung).
Với chiều cao 23,84m, Cột cờ Nam Định là kiến trúc cao nhất của Thành Nam thời kỳ đó. Đứng lầu vọng canh của Cột cờ có thể nhìn sang được vùng đất Thái Bình, bên kia sông Hồng, thậm chí nhìn sang tới tận Ninh Bình, bên kia sông Đáy.
Cột cờ Nam Định là một công trình kiến trúc độc đáo, phần bệ được xây bằng gạch nung già màu đỏ sẫm, khá tương đồng với Cột cờ Hà Nội. Cả hai cột cờ đều có mô hình một ngọn tháp hình lục lăng, bên trong rỗng và có cầu thang xoắn ốc đưa lên đỉnh.
Kiến trúc Cột cờ Nam Định khá tương đồng với kiến trúc Cột cờ Hà Nội.
Sân Cột cờ Nam Định xưa được xây thành sân hành lễ, hình vuông, có hàng lan can ở bốn cạnh. Phía Nam đặt hai khẩu súng thần công. Phía Đông đặt lư hương tưởng nhớ các liệt sỹ hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp để bảo vệ Cột cờ - Thành cổ vào các năm 1873 và 1883.
Cột cờ Nam Định bao gồm 3 phần chính: Chân đế, thân cột và vọng canh.
Chân đế Cột cờ gồm hai bệ hình vuông. Bệ trên thu nhỏ lại so với bệ dưới. Xung quanh phía ngoài của hai mặt bệ đều xây lan can.
Bệ dưới mỗi cạnh dài 16,33m; cao 2,40m. Từ bệ dưới lên bệ trên đều có bậc lên xuống.
Bệ trên mỗi cạnh dài 11,42m; cao 3,10m. Bốn mặt bệ đều xây lan can và trổ bốn cửa. Trên mặt bệ thứ hai, có cửa đi vào bên trong Cột cờ.
Trên cửa phía Đông có hai chữ "Nghênh húc" (đón ánh ban mai); cửa phía Nam có hai chữ "Hướng quang" (hướng theo đức sáng). Phía Nam có cửa đi vào trong thân cột cờ; trên cửa gắn bia đá khắc chữ Hán "Kỳ đài" và "Thiệu Trị tam niên phụng tạo".
Dưới bệ có Đền thờ Bà chúa Cột cờ - Giám thương Công chúa Nguyễn Thị Trinh - liệt nữ đầu tiên, hy sinh trong trận quân xâm lược Pháp đánh chiếm thành Nam Định ngày 11/12/1873.
Thân Cột cờ cao 12,65m, phần dưới xây hình trụ bát giác, phần trên xây hình tròn, thu nhỏ dần từ trên xuống dưới.
Trong thân cột cờ có cầu thang xoáy trôn ốc gồm 54 bậc đi lên vọng canh, được chiếu sáng bằng 32 ô cửa sổ hình hoa thị của 8 mặt thân cột cờ.
Phần vọng canh xây hình trụ tròn có hàng lan can, 4 cửa vòm và 8 ô cửa sổ nhỏ. Từ mặt vọng canh có thang sắt nhỏ lên đỉnh Cột cờ. Đứng trên lầu vọng canh có thể quan sát thoải mái về các phương hướng nội, ngoại thành.
Người dân Nam Định luôn tự hào với Cột cờ Thành Nam bởi nó gắn liền với nhiều dấu ấn lịch sử quan trọng.
Trong 2 lần thực dân Pháp đánh chiếm Thành Nam vào các năm 1873, 1883, Cột cờ là nơi diễn ra những trận chiến đấu kiên cường của các tướng sỹ và nhân dân Thành Nam.
Nhiều người đã anh dũng hy sinh, trong đó có anh hùng liệt nữ Nguyễn Thị Trinh. Bà là con gái của cụ Nguyễn Kế Hưng - quan Vệ úy coi kho lương ở Thành Nam triều Nguyễn.
Sau khi mất, bà được Vua Tự Đức và Vua Thành Thái truy phong là "Giám thương Công chúa" (Bà Chúa coi kho) và phong tặng mỹ hiệu "Tiết liệt anh phong". Nhân dân Thành Nam suy tôn bà là Bản Cảnh Thành hoàng và lập miếu thờ tại Kỳ đài.
Tại Cột cờ hiện nay ở độ cao 11m về phía Nam vẫn còn một vết đạn sâu 4cm, đường kính 6cm - vết tích của tàu chiến Pháp từ sông Đào bắn phá vào trong thành ngày 27/3/1883.
Năm 1945, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới bay trên đỉnh Kỳ đài, khẳng định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám trên quê hương Nam Định.
Trong suốt thời kỳ chống Mỹ cứu nước, nhiều cán bộ, Đảng viên chọn Cột cờ làm nơi liên lạc và sinh hoạt bí mật để bàn kế chỉ đạo phong trào.
Cột cờ Nam Định cũng là trạm quan sát và trực chiến của dân quân tự vệ Nhà máy Liên hợp Dệt Nam Định.
Trải qua hai trận bị máy bay Mỹ oanh kích vào năm 1965 và năm 1972, Cột cờ bị phá hủy. Đến năm 1997, kỷ niệm 43 năm ngày giải phóng thành phố Nam Định (1954-1997), Cột cờ được phục dựng lại theo đúng nguyên trạng.
Cột cờ Nam Định được Nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử-Văn hóa cấp Quốc gia từ rất sớm, vào ngày 28/4/1962. Năm 1997, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã cấp Bằng Di tích Lịch sử-Văn hóa cho công trình này.
Từ năm 2011, Bảo tàng tỉnh Nam Định tiếp nhận quản lý Di tích Cột cờ Nam Định. Hàng năm, nơi đây đón hàng trăm đoàn khách trong nước và quốc tế đến tham quan và thắp hương tưởng nhớ các anh hùng hy sinh vì đất nước.
Với giá trị lịch sử và văn hóa, công trình kiến trúc cổ gần 2 thế kỷ Cột cờ Nam Định chính là biểu tượng khơi dậy lòng yêu quê hương, đất nước, ý thức tự hào, quyết tâm sắt đá bảo vệ chủ quyền, độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam.
Kỳ quan Việt Nam biến giấc mơ của du khách quốc tế trở thành hiện thực Trang The Daily Star mới đây nhận định nếu du khách quốc tế đang muốn thực hiện chuyến phiêu lưu du lịch hoàn hảo mà không phải đến vùng đất quá xa xôi thì Việt Nam sẽ là điểm đến hoàn hảo. Du lịch quốc tế có thể khiến du khách quốc tế cảm thấy lo lắng về chi phí. Bởi giá cả...