Chuyện tình Hải quân: 19 năm và 285 ngày
19 năm bám biển, với 6.935 ngày, vợ chồng thiếu tá, chỉ huy trưởng nhà giàn DK1 Lê Xuân Nam và cô giáo Lương Thị Thu chỉ có 285 ngày bên nhau.
Ước hẹn
“Chúng mình lấy nhau, giờ đứa con gái đầu lòng đã học lớp 9 rồi, vậy mà thời gian vợ chồng gần nhau quá ít. Anh đi biền biệt, cả năm được có 15 ngày phép, có khi 14 tháng mới được vào đất liền một lần. Căn nhà thiếu vắng người trụ cột, luôn trống trải nhưng riết mãi rồi cũng quen”, chị Lương Thị Thu (giáo viên tiếng Anh, trường THCS Phước Thắng, phường 11 Vũng Tàu), vợ anh Nam mở đầu câu chuyện.
Tháng 9/1994, sau ba năm đèn sách, thiếu úy Nam về xã Hoằng Thái, huyện Hoằng Hóa (Thanh Hóa) thăm bố mẹ, tình cờ gặp n.ữ s.inh khoa Ngoại ngữ Trường Đại học Hồng Đức tại nhà một người bạn. Hình ảnh người lính rắn rỏi, mạnh mẽ khiến trái tim cô sinh viên Lương Thị Thu xao xuyến. Còn chàng sĩ quan cũng ngẩn ngơ trước cô “kỹ sư tâm hồn” có duyên mặn mà. Họ làm quen nhau.
Ba ngày sau, Nam đạp xe đến Hoằng Lưu tìm Thu. “Giữa đám bạn, em mạnh miệng là vậy nhưng một mình đối diện với anh Nam, em ngại ngùng không biết nói năng gì, còn anh Nam lúc đó cứ gãi đầu, gãi tai, hết hỏi gia đình làm được mấy sào lạc, thu hoạch được lúa nhiều không, đến hỏi thăm sức khỏe bố mẹ, họ hàng”, chị Thu kể.
Anh Nam trong lần sinh nhật con gái.
30 ngày phép qua mau, ngày Nam tạm xa quê hương trở lại đơn vị cũng là ngày Thu nhận lời yêu anh. Bên cánh đồng thơm mùi lúa mới, dưới ánh trăng tháng 9, cầm tay Thu, Nam nói: “Anh yêu em. Hãy đợi anh về nhé”.
Sóng gió
Tháng 10/1994, Nam về tiểu đoàn DK1 nhận nhiệm vụ (lúc đó tiểu đoàn DK1 trực thuộc Lữ đoàn 171). Sau 5 tháng huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, tháng 4/1995, lần đầu tiên chàng sĩ quan lục quân 2 bước chân xuống tàu đi biển.
Năm 1995 đến năm 2000, đời sống của cán bộ chiến sĩ các nhà giàn DK1 vô cùng khó khăn. Nắng lửa quanh năm, gió rát bốn mùa, nước ngọt chia từng ca, rau xanh nhường từng cọng. Phương tiện thông tin duy nhất lúc đó nối với đất liền là thư viết tay.
Video đang HOT
Cuộc sống gian khó ở nhà giàn khiến Nam day dứt nhiều về mối tình với cô giáo trẻ. Sợ rồi Thu đến với mình sẽ phải chịu nhiều thiệt thòi, vất vả, Nam viết thư chủ động chia tay.
“Em hãy quên anh đi, coi như chúng ta giữ trong nhau một kỷ niệm đẹp. Lính nhà giàn quanh năm sóng nước trùng khơi, một năm chỉ gặp nhau vẻn vẹn 15 ngày phép. Lấy anh, em sẽ khổ, nếu có con, con chưa quen hơi bố đã đi rồi”. Lá thư ấy sau gần 3 tháng mới đến tay Thu.
Khi con gái lên hai t.uổi, ngày nào tôi cũng chỉ tấm ảnh của chồng cho con gái xem. Vì thế, khi bế con ra ngoài đường, hễ nhìn thấy chú bộ đội mặc quân phục màu trắng, con gái lại gọi “bố Nam, mẹ ơi bố Nam kìa”. Lúc ấy, tôi chỉ muốn khóc, rồi vội vàng bế con về nhà mà thao thức cả đêm”.
Chị Lương Thị Thu
“Cầm lá thư anh ấy trên tay, tôi đã bật khóc nức nở. Khóc không phải vì lý do anh ấy muốn chia tay với tôi mà vì thương và khâm phục những người lính nhà giàn. Ở quê nhà chân lấm tay bùn, nhưng không thấm thía gì so với những vất vả, hy sinh thầm lặng của các anh. Tôi đã viết thư lại cho anh chỉ trả lời ngắn gọn: Em thích lấy chồng bộ đội”, chị Thu kể.
Thời gian cứ thế trôi. Nam ở ngoài khơi kiên cường bám biển, Thu ở quê nhà sắt son đợi chờ. Tình yêu gửi gắm qua những cánh thư. Sau ba năm đằng đẵng đợi chờ, mùa đông năm 1997, anh Nam được vào bờ, hai người quyết định tổ chức đám cưới.
“Ba tuần sau đám cưới, tôi phải để vợ sống với bố mẹ rồi vào Vũng Tàu tiếp tục hành trình ra nhà giàn”, anh Nam cười, kể lại. “Chia xa lần ấy, nhớ nhung quay quắt. Vợ khóc từ mấy hôm trước. Người lính dù mạnh mẽ đến mấy nhưng những giây phút ấy không thể cầm lòng. Đấu tranh tư tưởng, tôi chỉ biết cắm đầu bước đi, không dám quay lại vẫy chào vợ”, anh Nam trùng giọng.
Sợ con quên mặt bố
Chị Thu nước mắt lưng tròng kể về những ngày anh Nam ở nhà giàn DK. “Anh Nam đi 14 tháng mới vào đất liền, khi đi em mang bầu, khi về con gái đã tròn 6 tháng t.uổi, đưa tay bế, con gái khóc thét”.
Hai tiếng “bố con” làm anh ngượng ngập, anh đành đổi cách xưng hô “cậu với tớ” để làm quen với con gái. Con gái cứ thấy bố là sợ, đến bữa ăn không cho bố ngồi cùng mâm. “Những lúc đó tim tôi như thắt lại, chỉ muốn quay mặt đi làm ngơ, không dám nhìn đối diện với mặt con”.
Anh Nam, chị Thu
Không để con quên mặt bố, để con luôn nhớ và tự hào về người bố của mình, chị Thu thường đọc những bài báo viết về lính nhà giàn cho con nghe. Giờ hai đứa con của chị rất quấn bố. Mỗi lần nghe tiếng còi tàu hú nơi cầu cảng, ba mẹ con cứ ngóng trông, đứng ngồi không yên.
“Bố về, hai con chạy ra đón, con chị mở cổng, thằng em xách ba lô. Quà của bố lần nào cũng như lần nào là mấy con ốc biển xin của ngư dân và một ít ruốc cá do bố tự làm, nhưng các con đều rất thích”, chị Thu cho biết.
Lật lại những trang thư từ ngày yêu nhau, chị Thu hãnh diện: “Không hiểu sao từ ngày là sinh viên tôi rất thích màu áo lính hải quân. Hình ảnh anh bộ đội hải quân bồng s.úng canh biển luôn làm tôi xao xuyến. Giờ già rồi nhưng tình cảm thì vẫn thế. Tất cả những lá thư của vợ chồng tôi đều giữ làm kỷ niệm. Những bài báo viết về nhà giàn DK1 tôi cũng sưu tầm thành tập để lúc anh ấy đi biển mình lấy ra đọc cho đỡ nhớ”.
Chiều cuối tuần, phía cuối trong con hẻm 1.000 ở đường 30/4 sâu hun hút là nơi tổ ấm của người lính nhà giàn. Thiếu tá Nam mới trở về từ nhà giàn sau 8 tháng bám biển. Ngôi nhà nhỏ ngập tràn tiếng cười nói hạnh phúc. Lê Nam Anh, con trai thứ hai bảo: “Bố làm bộ đội con cũng muốn làm bộ đội, sau này con sẽ đi cùng bố ra nhà giàn giữ biển bố nhé”.
Theo 24h
Câu cá đêm ở Trường Sa
Mỗi chuyến tàu ra với quần đảo Trường Sa, các thủy thủ không bỏ lỡ cơ hội buông câu và hò reo khi bắt được cá lớn. Câu đêm với họ không chỉ là thú vui mà còn giúp cải thiện bữa cơm người lính.
18h tối, bóng điện phía sau boong chính tàu HQ 561 được thắp sáng để thu hút sự chú ý của đàn cá. "Đã đi tàu thì hầu như anh em nào cũng sắm sẵn bộ đồ câu, giá khoảng 400-500 nghìn đồng mới có thể câu được các loại lớn như cá thu, cá ngừ", thuyền viên Nguyễn Văn Quang nói.
Khác với đất liền, câu cá ở Trường Sa chỉ dùng sợi dây có buộc lưỡi và chỉ để mắc mồi buông câu. Ảnh: Nguyễn Đông
Không giống như trên đất liền, câu cá ở Trường Sa không dùng cần mà chỉ dùng những cuộn cước buộc lưỡi, chì và mắc mồi từ chính con cá chuồn nhỏ bắt được rồi tung xuống biển. Mỗi khi bắt được cá lớn, người câu lại cắt phần bụng để làm mồi cho đợt buông câu tiếp theo. Theo lý giải của thuyền viên, phần bụng cá vừa dai, vừa trắng sáng dưới ánh đèn điện nên dễ dụ cá cắn câu.
Vận sức buông câu rồi ngồi yên một góc chờ đợi, anh Nguyễn Quang Sáng, thuyền viên báo vụ số 1, cho biết câu cá ở Trường Sa có hai cách là câu kéo (mắc mồi vào lưỡi và buông câu xuống độ sâu chừng 30-50 m rồi kéo lên để nhử cá) và câu ngâm (mắc mồi và quăng xuống biển ở độ sâu vài trăm mét, chờ khi nào cá cắn câu thì kéo lên).
"Không dùng phao nên để biết cá đã cắn câu hay chưa thì bắt buộc phải có cảm giác ở đôi tay. Chỉ cần cá mắc câu, giựt dây ở độ sâu hàng trăm mét là người câu phải biết cách kéo dây sao cho đều đặn để đưa cá lên. Nếu cá lớn thì phải dùng móc sắt", anh Quang bật mí.
Mồi câu được lấy từ cá chuồn nhỏ hoặc cắt phần bụng của cá ngư, cá thu. Ảnh: Nguyễn Đông
Tiếng hò vang cả góc boong khi thuyền viên Nguyễn Trường Chinh kéo lên một con chép mỏ vịt nặng khoảng 10 kg. Là tay câu có tiếng, anh Chinh cho biết nếu gặp may có thể câu được cá ngừ, cá thu nặng 20-30 kg. "Khi kéo lên gần mặt nước phải thật dứt khoát, ghì c.hặt t.ay vì cá lớn rất khỏe, mình không khéo léo sẽ bị cá kéo hoặc cắn đứt dây câu và trốn thoát", anh Chinh nói.
Nghề câu hên xui theo luồng cá, nhưng người câu phải nắm được lý thuyết cơ bản về thời tiết, không thả mồi vào đêm trăng sáng. Thuyền viên trên tàu nhớ làm lòng khu vực nhiều cá như ở đảo Đá Nam, Đá Lát, Núi Le, Tốc Tan... Mỗi lần ngang qua ngư trường này, họ không bỏ lỡ cơ hội buông câu. "Có lần gặp trúng luồng cá măng, dùng vợt cũng có thể vớt được hàng tạ cá", một thuyền viên cho biết.
Có thâm niên hàng chục năm câu đêm, thuyền viên Nguyễn Hải Nam cho biết, ban ngày anh em bận công việc chuyên môn nên chỉ rảnh rỗi vào ban đêm. Thêm vào đó, buổi đêm khi bật điện sẽ dễ thu hút luồng cá. "Có hôm nhiều cá tụi tôi câu thâu đêm. Sáng ra được cả tạ cá, ai cũng vui", anh Nam kể.
Thành quả của buổi câu đêm là những con cá lớn mắc lưới. Ảnh: Nguyễn Đông
Những thuyền viên mới vào nghề hay bộ đội từ đất liền ra nhận nhiệm vụ tại đảo khi muốn thử sức đều được các "lão làng" hướng dẫn tỉ mỉ từ cách mắc mồi, buông câu. "Nhìn thì dễ nhưng để câu được con cá từ biển không hề đơn giản. Có người khi buông câu bị lưỡi câu mắc vào cổ. Đôi khi nhiều người buông câu khiến dây cước mắc vào nhau, buộc phải cắt dây, thiệt hại vài trăm nghìn, nhưng buồn là hành trình còn lại sẽ không được câu nữa", anh Nam chia sẻ.
Thượng úy Phạm Hồng Phú, chính trị viên tàu HQ 561 cho biết, với thuyền viên, việc câu cá không chỉ là thú tiêu khiển mà còn là cách để anh em trên tàu cải thiện nguồn thức ăn. Có khi là một bữa tiệc nho nhỏ với đặc sản cá Trường Sa ngay sau khi buổi câu kết thúc để tiếp khách trong đoàn công tác, hay cá được bỏ vào tủ đông để phục vụ cho những bữa ăn dài ngày trên biển.
Theo VNE
Ảnh mới nhất về Trường Sa qua mắt chiến sĩ Gần 100 bức ảnh ấn tượng, từ nụ cười trẻ thơ đến phút chia tay bịn rịn của những người lính hải quân... trên đảo Trường Sa. Cuộc sống của những người lính, khu dân cư mới, nụ cười trẻ thơ và phút chia tay bịn rịn... trên đảo Trường Sa được tái hiện tại triển lãm ảnh với chủ đề Trường Sa...