Chuyên môn hay bằng cấp?
Đến thời điểm này, công chức, viên chức vẫn loay hoay với câu hỏi: Chú tâm làm chuyên môn hay chịu khó “sưu tầm” bằng cấp chứng chỉ để “đáp ứng yêu cầu” của chức vụ hay ngạch bậc?
Ảnh minh họa
Hôm nọ, nhân dịp họp lớp tôi gặp lại anh bạn hiện làm trưởng phòng một cơ quan cấp Sở một tỉnh miền núi. Chuyện xuôi chuyện ngược lại trở về công việc. Làm trưởng phòng gần 10 năm, bạn tôi vẫn chỉ là chuyên viên thường với phụ cấp 0,5 chứ chưa được lên “chính” đừng nói là “cao cấp”. Hỏi thì anh bạn cười buồn: Vài năm trước thì thiếu chứng chỉ ngoại ngữ. Năm nay thì chưa có chứng chỉ bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch chuyên viên chính.
“Cơ quan tôi cũng chỉ có vài người đi thi. Toàn người làm hành chính nên có điều kiện học hành đủ thứ bằng cấp, chứng chỉ. Chứ bọn tôi làm chuyên môn, thiếu người nên trưởng phòng cũng lăn ra làm, thời gian đâu mà học. Cố được chứng chỉ chính trị lại thiếu chuyên viên chính” – anh bạn ngán ngẩm.
Đấy là bạn tôi nằm trong số những trưởng phòng xuất sắc được quy hoạch phó giám đốc sở, nhiều năm liền được nhận danh hiệu chiến sĩ thi đua. Nhưng lúc lên danh sách thi nâng ngạch thì những người làm việc lại thiếu văn bằng, chứng chỉ còn lại toàn chuyên viên loại nhàng nhàng nhưng… đủ điều kiện cứng.
Không chỉ công chức hành chính, nạn giấy tờ, văn bằng chứng chỉ “hành” không từ một ai trong bộ máy. Ví như tâm sự của một nhà giáo trên báo: Xưa nay, thầy cô giáo chỉ biết rằng mình tốt nghiệp một trường sư phạm chính quy, được tuyển dụng vào ngành làm công việc giảng dạy và giáo dục học sinh thế là đủ. Vậy mà, hết yêu cầu phải có chứng chỉ tin học, chứng chỉ ngoại ngữ, nay lại đến chứng chỉ nghề nghiệp. Mỗi chứng chỉ phải bỏ tiền ra học nhưng chẳng khác gì đi mua, và làm thế để làm gì?
Câu trả lời muôn thuở vẫn là: Để hoàn thiện hồ sơ theo chỉ đạo của cấp trên.
Vấn nạn “bằng cấp hành cán bộ” đã lên tận nghị trường. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV, trả lời chất vấn của đại biểu, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân thừa nhận, bản thân Bộ trưởng cũng thấy rất phiền hà trước tình trạng yêu cầu quá nhiều văn bằng, chứng chỉ.
Theo Bộ trưởng, không chỉ riêng trong thi nâng ngạch hoặc xét thăng hạng viên chức, quy định bổ nhiệm bây giờ yêu cầu tới 7 bằng cấp tiêu chuẩn, điều kiện là quá nhiều. Nhưng vấn đề này không phải chỉ do mỗi Bộ Nội vụ đặt ra. Tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức ngành hành chính được ban hành từ năm 1993. Đến bây giờ là hai mươi mấy năm rồi thì cũng cần phải sửa. “Bộ Nội vụ xin nhận khuyết điểm này khi để một quyết định hơn 20 năm không sửa, khiến thủ tục rườm rà” – Bộ trưởng Nội vụ nhấn mạnh.
Video đang HOT
Về giải pháp, theo Bộ trưởng, Bộ Nội vụ sẽ quy định kiểm định tiêu chuẩn bằng cấp, chứng chỉ theo phương thức thực chất, không để những chuyện bằng cấp là gánh nặng đối với cán bộ, công chức nữa. Ví dụ tin học, ngoại ngữ phải thi trên máy tính, bài làm sát hạch bằng tiếng Anh. Ông Tân cũng dẫn kinh nghiệm ở nhiều nước tiên tiến, việc tuyển chọn công chức không cần văn bằng, chứng chỉ, mà thông qua phỏng vấn để xác định người ứng tuyển có tương xứng, phù hợp với vị trí cần tuyển hay không.
Nhưng có lẽ vấn đề không phải ở tấm bằng. Trên báo chí có nhiều bài phản ánh việc đi học – thi chứng chỉ ngoại ngữ, tin học, chức danh nghề nghiệp như đi chơi, có mặt cho đủ, kiểu “đóng tiền lấy bằng”. Như vậy, những chứng chỉ đó không thể hiện năng lực thực sự của mỗi công chức, viên chức.
Cái gốc vấn đề vẫn là việc đổi mới tuyển dụng công chức, viên chức. Cần đề ra “mức sàn” về bằng cấp như có bằng đại học đối với một số chức danh. Còn các kỹ năng hành chính, ngoại ngữ, tin học, chuyên môn thể hiện qua việc thi cử nghiêm minh. Thi vào vị trí nào có những bài thi được thiết kế cho vị trí đó chứ không phải cào bằng, ào ào như cách chúng ta đang mở các kỳ thi tuyển dụng hiện nay.
Muốn vậy thì từng cơ quan phải có đề án việc làm với những vị trí xác định cùng các tiêu chuẩn về bằng cấp, chuyên môn cụ thể, tỉ mỉ cũng như với một mức lương xác định. Từ đó, mới có thể có những kỳ thi tuyển mà người thi lẫn người chấm đều biết trước về những yêu cầu, điều kiện cũng như mức thu nhập ở vị trí đó.
Nhưng đó vẫn là câu chuyện ở thì tương lai khi mà những đề án việc làm, đề án lương đang được các cơ quan hữu quan xem xét. Từ nay cho đến lúc những đề án này đi vào hiện thực, việc tuyển dụng, nâng ngạch hay thăng hạng vẫn phụ thuộc vào bằng cấp chứng chỉ.
Dù Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã 2 lần nhận khuyết điểm trong phiên chất vấn nhưng tình thế vẫn chưa thay đổi. Bên ngoài hội trường, công chức, viên chức vẫn loay hoay với câu hỏi: Chú tâm làm chuyên môn hay chịu khó “sưu tầm” bằng cấp chứng chỉ để “đáp ứng yêu cầu” của chức vụ hay ngạch bậc?
Anh Tú
Theo daidoanket
Thi tuyển giáo viên: Không nên cứng nhắc
Hình thức thi viên chức được coi là để chuẩn hóa lực lượng GV, đặc biệt là nhằm phục vụ cho việc triển khai Chương trình GDPT mới. Tuy nhiên, thi tuyển hay xét tuyển là vấn đề đặt ra khi qua thi tuyển nhiều giáo viên hợp đồng lâu năm sẽ khó có cơ hội vào nghề.
Giáo viên hợp đồng tại Sóc Sơn (Hà Nội) kêu cứu vì lo lắng thi tuyển viên chức sẽ trượt. Ảnh: INT
Chưa bám sát thực tế
Từ ngày 15/1/2019, khi Nghị định 161/2018/NĐ-CP có hiệu lực, việc tuyển dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập sẽ có những thay đổi. Nghị định quy định việc thi tuyển, xét tuyển công chức, viên chức sẽ diễn ra trong 2 vòng: Thi trắc nghiệm trên máy tính về kiến thức chung, ngoại ngữ và tin học; Thi môn nghiệp vụ chuyên ngành.
Xét tuyển công chức, viên chức: Vòng 1: Kiểm tra điều kiện, tiêu chuẩn của người dự tuyển theo yêu cầu của vị trí việc làm tại phiếu đăng ký dự tuyển; Vòng 2: Phỏng vấn để kiểm tra về năng lực và trình độ chuyên môn.
Chuyện thừa - thiếu giáo viên, buộc phải chấm dứt - tuyển thêm giáo viên hợp đồng là việc bất đắc dĩ phải làm bởi chính những bất cập trong công tác tuyển dụng giáo viên ở nhiều địa phương lâu nay. Thực tế không riêng Hà Nội mà trên cả nước, có nhiều thầy cô giáo đã có hợp đồng 10 năm, 20 năm, thậm chí 24 năm vẫn không vào được biên chế.
Theo PGS Trần Xuân Nhĩ, việc tuyển dụng giáo viên nên giao trực tiếp cho các địa phương và thực hiện theo cơ chế đặt hàng. Chẳng hạn, địa phương có nhu cầu sử dụng bao nhiêu giáo viên thì đặt hàng cho các trường đại học sư phạm đào tạo.
Chia sẻ về vấn đề này, PGS Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT cho rằng, nguyên nhân của thực trạng này là do việc lập kế hoạch tuyển dụng không bám sát điều kiện thực tế cũng như không dự đoán được biến động của nhu cầu tuyển dụng giáo viên.
Cơ chế tuyển giáo viên hiện nay là giao chỉ tiêu từ Trung ương xuống mà không căn cứ vào tình hình thực tế về nhu cầu sử dụng giáo viên của địa phương. Nhân lực thuộc ngành GD-ĐT nhưng biên chế do Bộ Nội vụ quy định là một nguyên nhân khiến việc tuyển dụng giáo viên có nơi thiếu, có nơi thừa.
Cán bộ quản lý của các trường có nhu cầu tuyển dụng cần được trực tiếp tham gia vào quá trình tuyển dụng. Ảnh minh họa/ INT
Khắc phục bất cập
Tình trạng tuyển dụng giáo viên nơi thiếu vẫn thiếu, nơi thừa vẫn thừa xảy ra cục bộ tại nhiều địa phương là vấn đề nóng thời gian qua. Vấn đề đặt ra là nên thi tuyển hay xét tuyển?
Chia sẻ về vấn đề này, PGS.TS Đặng Bá Lãm, nghiên cứu viên cao cấp Viện KHGDVN, Trưởng ban Khoa học và Dịch vụ, Hiệp hội các trường ĐH, CĐ Việt Nam cho rằng: Không nên quy định cứng nhắc xét tuyển hay thi tuyển mà dựa vào từng trường hợp cụ thể của ngành, địa phương, đơn vị, nhu cầu của một số trường... Ví dụ như, một trường đang cần giáo viên thể dục chuyên ngành bơi, nhưng lại điều đến người có chuyên ngành vật lý, hay trường thiếu giáo viên dạy Địa lý lại điều về giáo viên dạy Ngữ văn...
Cho rằng, công tác tuyển dụng sẽ thực sự trở thành khâu quan trọng trong việc lựa chọn những giáo viên có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, lòng nhiệt tình, PGS Trần Xuân Nhĩ nhấn mạnh: Không nên đặt vấn đề hình thức tuyển dụng thế nào mà là cách thực hiện ra sao để bảo đảm công bằng, khách quan, nhất là đối với những GV hợp đồng công tác lâu năm và có thành tích tốt. Việc tuyển dụng nên phân chia thành nhiều đối tượng và mỗi đối tượng có hình thức tuyển dụng khác nhau cho phù hợp với tình hình thực tế.
Giải pháp về lâu dài, kiến nghị Chính phủ khi thực hiện Luật Viên chức cần tính tới đặc thù của nghề giáo. Nên thống nhất về một đầu mối theo hướng nhân lực ngành Giáo dục phải do ngành Giáo dục quản lý, tuyển dụng, tránh tình trạng tréo ngoe như hiện nay là ngành Giáo dục chịu trách nhiệm về chất lượng, về chương trình đào tạo nhưng một trong những yếu tố quyết định chất lượng là tuyển dụng giáo viên lại do ngành Nội vụ thực hiện.
Theo PGS.TS Đặng Bá Lãm, để khắc phục hạn chế này, nếu thi tuyển, các khâu như thi lý thuyết, thực hành cần có camera ghi hình để giám sát, bảo đảm tính khách quan và làm căn cứ sau này phục vụ yêu cầu phúc khảo của thí sinh. Thành viên ban giám khảo phải là những người có trình độ, uy tín, công tâm. Cán bộ quản lý của các trường có nhu cầu tuyển dụng cần được trực tiếp tham gia vào quá trình tuyển dụng.
Công tác tuyển dụng sẽ thực sự trở thành khâu quan trọng không chỉ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của mỗi nhà trường, mà còn tạo sự tin tưởng trong đội ngũ nhà giáo và nhân dân.
Nghề giáo là nghề đặc thù, do vậy, dù xét tuyển hay thi tuyển cũng nên xét đến yếu tố đặc thù mới đảm bảo tính công bằng. Việc xét tuyển hay thi tuyển giáo viên phải tính đến nhiều yếu tố, trong đó nên ưu tiên cho những giáo viên có phẩm chất đạo đức tốt, có kinh nghiệm, dạy giỏi và tâm huyết với nghề... mới góp phần phát triển nền giáo dục.
Lê Đăng
Theo giaoducthoidai
Sắp có kết luận chính thức vụ nữ trưởng phòng đánh tráo thân phận Dự kiến, đầu tuần tới, cơ quan chức năng Đắk Lắk sẽ có kết luận chính thức về vụ bà Trần Thị Ngọc Ái Sa (giả)-Trưởng phòng Quản trị thuộc Văn phòng Tỉnh ủy Đắk Lắk, sử dụng cả họ tên, bằng cấp của chị gái ruột. Theo nguồn tin của Tiền Phong, ngoài 2 tổ xác minh về trường hợp bà Trần...