Chuyện ly kỳ về xóm ‘người rừng’
Dưới chân dãy Giăng Màn quanh năm mây mù bao phủ, mấy hộ dân người Mày ở xã Trọng Hóa (Minh Hóa, Quảng Bình) sống theo phương thức săn bắn, hái lượm. Đêm họ không đèn, ốm không thuốc, con cái lớn lên không học hành.
Từ trạm biên phòng bản Dộ, vượt qua mấy con suối mới tới được xóm “ người rừng”. Đang là mùa mưa, con suối Kà Rong dữ dằn hơn. Dòng nước đỏ ngàu, nước chảy băng băng cuốn phăng mọi vật cản trên dòng chảy. Vất vả lắm các chiến sĩ biên phòng mới giúp nhóm khách lạ vượt qua dòng nước dữ.
Xóm “người rừng” có 5 nóc nhà lợp lá cọ, có nhà xiêu vẹo sắp đổ. Xóm gồm 5 hộ với 40 nhân khẩu. Thấy đoàn người đi tới, mấy đứa trẻ ở trần, da đen như đồng hun đang tắm mưa chạy toán loạn.
Nhà của chị Hồ Phăng được làm bằng cây rừng kết lại. Trong nhà treo lủng lẳng cung, tên, nỏ và cả những cây củi được coi là vật thiêng. Trên vách nhà còn có rất nhiều bộ da thú, trong đó có một bộ da báo rất to. Vừa bập bập tẩu thuốc trên môi, chị Phăng ra hiệu mời khách ngồi chơi. Thấy khách định hạ cái cung đã mòn vẹt xuống xem, chị Phăng hốt hoảng hua hua ra hiệu không được sờ.
Trung úy Hà Anh Đức, đội trưởng Đội vận động quần chúng của Trạm biên phòng bản Dọ giải thích, ở đây họ kiêng kỵ nhiều thứ lắm. Theo tục của người Mày ở xã Trọng Hóa, người lạ không được đụng vào từ vật dụng cá nhân cho đến chỗ ngồi trong nhà.
Cả xóm người rừng chỉ có 5 hộ dân.
Các hộ trong xóm “người rừng” sống quây quần bên dòng suối Kà Rong. Ngày mưa chỉ có phụ nữ ở nhà, đàn ông vào rừng săn bắn. Họ trồng lúa nương nhưng chỉ lơ thơ vài chòm, hàng ngày vào rừng tìm củ, quả về ăn. Dân trong xóm sống biệt lập, ít khi trao đổi hàng hóa với các bản ngoài trung tâm xã.
Chị Phăng có 6 người con. Đứa con trai cả là Hồ Đun đã lấy vợ. Hai đứa con gái lớn năm nay đã gần 20 tuổi mà chưa có ai hỏi. Chị Phăng đang lo chúng không lấy được chồng vì ở xóm này không có đứa trai bản nào cùng lứa.
Vợ chồng Đun đã ra ở riêng. Sang nhà Đun chỉ có mình vợ Đun là Hồ Thị Khâm ở nhà. Thấy có đông người vào nhà, Khâm tỏ ra ngại ngùng. Khâm ngồi sưởi ấm một mình bên bếp lửa, miệng cũng ngậm một tẩu thuốc. Ở cái xóm “người rừng” này ai cũng hút thuốc. Họ cho rằng lửa sẽ mang lại nhiều may mắn nên chỉ trừ lúc ngủ và ăn mới không hút thuốc.
Khâm với Đun lấy nhau được 4 năm. Khâm đã 3 lần đẻ con nhưng chúng đều mất cả. Cũng như mọi người dân ở đây, Khâm sinh con tại nhà chứ không ra trạm y tế xã. Trong nhà Khâm chẳng có vật gì gợi nên sự no đủ. Ngoài số gạo cứu đói của Nhà nước do các chiến sĩ biên phòng mang đến, cuộc sống của vợ chồng trông cả vào rừng.
Video đang HOT
Trong căn nhà lá đơn sơ của ông Hồ Sun, người cao tuổi nhất xóm, mọi đồ dùng sinh hoạt đều do tổ tiên để lại. Trẻ em ở đây lớn lên cũng sống cuộc sống như bố mẹ chúng vậy. Khi đôi chân biết leo núi, cái tay biết căng dây nỏ cũng là lúc chúng được bố dạy cho cách tìm dấu vết của các con thú. Trong những chuyến đi rừng, chúng học cách phân biệt cây nào ăn được, cây nào có độc cần tránh. Đến tuổi trưởng thành, chúng đã thuộc nằm lòng cách sinh tồn giữa nơi hoang dã. Cuộc sống của nam giới nơi đây ở rừng nhiều hơn ở nhà.
Hỏi già Sun về chứng minh thư nhân dân và hộ khẩu, già lắc đầu, cái đó chẳng nghe thấy bao giờ. Tổ tiên chỉ truyền lại cách săn thú, nhặt quả rừng, chứ đã bao giờ nói đến những thứ đó. Những đứa trẻ nơi đây lớn lên chẳng cần quan tâm tới chuyện học hành. Bởi lẽ, cuộc sống nay đây mai đó của họ cốt sao được ăn no, chứ có đứa nào biết mặt chữ là gì. Hơn nữa, từ nơi đây chúng ra đến trường học cũng mất thời gian khá dài. Cứ như thế hết năm này qua năm khác họ sống êm đềm cùng núi rừng, không cần quan tâm đến thế giới bên ngoài.
Trẻ em ở xóm “người rừng”.
Ngoài 5 căn nhà lá, xóm còn có 5 cái lều nhỏ được dựng quanh đó. Đó là căn nhà ở của phụ nữ khi “đến tháng” hoặc sinh nở. Phụ nữ nơi đây đến chu kỳ kinh nguyệt phải mang xoong, nồi, quần áo ra đó ở, chứ không được ở nhà chính. Họ phải sống một mình khoảng 5 ngày và không được tiếp xúc với người trong nhà. Ngay cả chồng cũng không được bén mảng đến đó.
Hỏi ông Hồ Sun vì sao phụ nữ thường phải ở một mình khi đến ngày đó, ông Sun lại đưa tẩu thuốc lên miệng bập bập mấy hơi rồi mới chậm rãi bảo: “Bao năm nay người dân chỉ sống trong rừng sâu núi thẳm. Các cụ miềng sống như thế, giờ miềng cũng phải theo chứ. Không bỏ được đâu”.
Khắt khe nhất là luật tục về phụ nữ sinh đẻ. Phụ nữ trong thời gian sinh con được gia đình làm cho một cái chòi để ở riêng. Đến khi nào con biết cười, vợ chồng mới làm lễ đuổi cái dơ bẩn, bệnh tật đi cho đứa con được sạch sẽ. Sau đó, gia đình mới đón cả 2 mẹ con vào nhà. Người dân cho biết khi làm lễ tục phải chu đáo, nếu không khi đưa con về nhà sẽ bị “con ma rừng” theo đuổi.
Lễ tục diễn ra với hình thức đào một cái hố sâu, rồi trải lá dong rừng xuống, lấy mấy viên đá nhặt ở khe suối về nung đỏ rồi đặt lên trên lá dong. Sau đó, cạo lấy 3 nắm rễ cây “lạng hang” bỏ vào, vợ chồng cầm 2 nhánh cây dầu thơm ngồi ở trên hố và dội nước vào. Khi khói bay lên thì giơ đứa con lên cho cái dơ bẩn, bệnh tật bay theo gió, theo mây. Cái mùi thơm của khói bay lên từ hố sẽ đuổi “con ma” về với rừng.
Ở đây, ốm đau, người dân chẳng dùng thuốc, ngay cả việc dùng lá cây rừng cũng không. Họ ốm rồi đợi bệnh tự khỏi. Bệnh nặng quá không qua được thì chết. Họ coi đó là sự chọn lọc tự nhiên.
Đồn biên phòng Ra Mai đang cố gắng vận động những cư dân “người rừng” này ra ngoài bản Dộ định cư. Tuy nhiên, sau nhiều năm các chiến sĩ biên phòng đi lại để dân vận, người dân vẫn cương quyết ở đây. Họ bảo, ở rừng thích hơn. Đến nay mới có một cháu trong xóm được đón ra ngoài bản Dộ học chữ.
Theo NNVN
Phép thuật kỳ bí của tộc người Rục
Đã hơn 50 năm được tìm thấy và gia nhập cộng đồng các dân tộc Việt Nam, nhưng tộc người Rục ở xã Thượng Hóa (Minh Hóa, Quảng Bình) vẫn mang trong mình những nét bí ẩn.
Cuối năm 1959, bộ đội Biên phòng Cà Xèng đóng tại Thượng Hóa trong một lần tuần tra đã phát hiện nhóm "người rừng" nhút nhát, không mảnh vải che thân, leo trèo vách đá, chuyền cành nhanh như thú hoang. Sau nhiều tháng tiếp cận, bộ đội đã vận động được họ rời hang đá về định cư ở thung lũng Rục Làn, xã Thượng Hóa. Từ đây tộc người Rục được biết đến như là em út trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đến đầu năm 2013, tộc người Rục được quốc tế đưa vào danh sách 10 bộ lạc còn nhiều điều bí ẩn nhất thế giới.
Một góc bản người Rục hiện nay. Ảnh: Tiền phong.
Theo ông Đinh Thanh Dự, nhà nghiên cứu văn hóa các tộc người ở Quảng Bình, gần hết một đời người bỏ công nghiên cứu nhiều tộc người trên địa bàn, nhưng với người Rục vẫn còn nhiều điều bí ẩn đối với ông và các nhà khoa học. Nay tuổi già, sức yếu không cho phép ông có những chuyến điền dã, nhưng ông vẫn luôn đau đáu về những gì còn dang dở với người Rục.
Ông Dự khẳng định, người Rục không có họ, không có tộc danh, là một tộc người chậm phát triển nên vẫn đậm nét người Việt cổ. Vì họ sinh sống ở những hang đá mà theo phương ngữ "rục" có nghĩa là hang đá có nước chảy qua nên các tộc người khác gán ghép cho họ là người Rục. Qua nghiên cứu về nhân chủng học, ngôn ngữ của người Rục, các nhà khoa học đã ghép tộc người Rục vào nhóm dân tộc Chứt ở Quảng Bình cùng với Sách, Mày, Mã Liềng, A Rem...
Trước khi rời hang đá, người Rục có 109 người, sống tách biệt, không tiếp xúc với thế giới bên ngoài, gặp người lạ là trốn chạy. Cuộc sống của họ hoàn toàn dựa vào tự nhiên, chỉ quen leo trèo cây, thoăn thoắt trên các triền núi cao để săn bắt chim thú, hái lượm, đào củ ráy, củ mài. Họ không mặc quần áo, nam nữ đều búi tóc đằng sau, che mình bằng vỏ cây sui, khi màn đêm buông xuống, họ cùng nhau tìm đến hang đá trú ngụ và thường ngủ ngồi.
Đến nay, sau hơn 50 năm rời hang đá, nhưng vợ chồng ông Cao Chơn và Cao Thị Bim (hơn 80 tuổi) vẫn giữ nguyên nếp sống nguyên thủy. Mặc dù đã được nhà nước xây nhà, cấp đất trồng trọt, nhưng ông bà không ở nhà mà thường xuyên lên hang đá để ở. Hai vợ chồng già vẫn nếp cũ, ngày săn bắt hái lượm, tối về hang ngủ ngồi mặc cho con cháu, chính quyền vận động.
Trưởng bản Mò O Ồ Ồ, anh Cao Văn Đàn (39 tuổi) cho biết, không chỉ ông bà Cao Chơn mà gần 500 người Rục hiện nay thi thoảng vẫn nhớ hang đá. Mặc dù có nhà cửa, nhưng cứ đến mùa rẫy nhiều gia đình lại dắt díu nhau vào hang sinh sống có khi vài ba tháng mới về...
Vợ chồng ông Cao Chơn vẫn thích ngủ ngồi. Ảnh: Tiền phong.
Theo ông Đinh Thanh Dự, hiện trong cộng đồng người Rục còn tồn tại hai dạng phép thuật bí hiểm mà các tộc người khác không có, đó là thuật thổi thắt, thổi mở và thuật hấp hơi. Trong những lần điền dã, ông Dự từng chứng kiến sự linh nghiệm của hai phép thuật này, nhưng cố công nghiên cứu về nó thì không thể. Vì người Rục xem đó là sự linh thiêng, không thể tiết lộ cho người ngoài.
Ông Dự cho biết, thuật thổi thắt, thổi mở của người Rục là dùng bùa chú thổi vào người phụ nữ để sinh hoạt vợ chồng không có con (gọi là thổi thắt); còn khi cần có con cũng dùng bùa chú để thổi vào người phụ nữ (gọi là thổi mở). Ngoài ra, người Rục còn có thuật hấp hơi để tránh thú dữ. Mỗi khi vào rừng, người Rục chỉ cần đọc câu thần chú thì dù có hổ, báo, voi rừng cũng không dám đến gần để tấn công. Điều này qua thực tế, dù sống chốn thâm sơn cùng cốc, nhưng chưa ai ghi nhận người Rục bị mãnh thú tấn công.
Ông Dự kể, trong một lần cùng nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Võ Xuân Trang điền dã để tìm hiểu những phép thuật của người Rục, ông Trang đã suýt mất mạng do muốn thử uy lực của thuật hấp hơi. Đó là lần vào rừng với một già làng người Rục, mặc dù đã được cảnh báo là phải luôn đi trước, cách xa 5 m mà không được đi sau lưng già làng người Rục (lúc đó đã đọc thần chú sử dụng thuật hấp hơi). Nhưng bất ngờ ông Trang cố tình tụt lại sau và ngay tức thì ông ngã vật ra đất, co giật và hộc máu. Già làng người Rục phải quay lại, lẩm bẩm câu gì đó và ông Trang trở lại bình thường.
Trưởng bản Mò O Ồ Ồ, Cao Văn Đàn cho biết, những phép thuật nói trên nay không còn phổ biến trong cộng đồng người Rục, nhưng những thầy Ràng (dạng thầy Mo) vẫn còn lưu giữ. Thầy Cao Ống năm nay đã 80 tuổi, ốm yếu, không đi lại được nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Sau một hồi thuyết phục, ông cũng đồng ý diễn lại các động tác trong thuật thổi thắt thổi mở. Những dụng cụ để ngay góc nhà, thế nhưng không ai dám đến lấy, vì sợ.
Thầy Cao Ống diễn lại thuật thổi thắt, thổi mở. Ảnh:Tiền phong.
Mãi sau ông Cao Ngọc Ên là em trai của thầy Cao Ống sang mới dám mang các dụng cụ ra và tự tay ông sắp xếp như một buổi lễ thổi thắt, thổi mở. Dụng cụ gồm: hai ống nứa, một dài (1 m), một ngắn (0,5 m), một phiến đá nhỉnh hơn hai bàn tay ghép lại, một cái bát đựng nước, một cái đựng hoa. Ông Ên nói, còn thiếu sáp ong làm nến, hương và sợi tóc, hoặc sợi chỉ để vào bát nước.
Thầy Ràng Cao Ống ngồi xổm trên giường, hai tay cầm hai ống nứa cà phần đầu nhọn vào phiến đá phát ra âm thanh trầm bổng. Cùng lúc, ông đọc thần chú có vần điệu như hát theo giai điệu từ hai ống nứa. Vừa đọc, ông vừa thổi hơi vào bát nước. Theo thông lệ, chừng 30 phút sẽ đưa bát nước có sợi tóc, hoặc sợi chỉ cho người phụ nữ muốn thắt không sinh nở uống và sẽ hiệu nghiệm.
Ông Cao Ống cho biết, thổi mở cũng ở dạng này, nhưng bài chú sẽ có nội dung khác. Ông còn có thể thổi chữa bệnh đứt tay, chân, chảy máu, rắn độc cắn... và mỗi dạng bệnh tật có những câu chú khác nhau. Ngoài thuật hấp hơi để tránh thú dữ cho riêng mình, ông có thể dùng phép thuật vẽ một vòng tròn cho nhiều người ngồi trong đó để chống lại thú dữ. Tuy nhiên, khi hỏi về nội dung các câu chú, và nhờ dịch sang tiếng phổ thông thì ông lắc đầu: "Đó là điều thiêng và tối kỵ của người Rục, không thể để người ngoài biết được".
Theo VNE
'Người rừng' bỗng nhiên...nhớ rừng Có hôm ngủ dậy, người thân thấy Lang đến chỗ để vật dụng của mình cầm rựa định vào rừng... Trợ giúp hòa nhập cuộc sống mới Sau gần một tuần trở về từ rừng sâu, anh Hồ Văn Lang (1969) con ông Hồ Văn Thanh (1932) đã dần quen với mọi người xung quanh. Không ngồi thu lu trong góc nhà, nhìn...