Chuyên gia Luật “mổ xẻ” về “quyền im lặng” của bị can, bị cáo
Khi Tòa hỏi, bị cáo trình bày không đúng sự thật, có một số trường hợp Thẩm phán đ.ánh giá thái độ đó của bị can, bị cáo là ngoan cố. Như thế là không đúng…
Theo Bộ Luật Tố tụng hình sự hiện hành, chưa có quy định nào cho phép người bị tạm giữ, bị can được quyền im lặng để chờ người bào chữa. Trong dự thảo Bộ Luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) đã bổ sung quy định người bị tạm giữ, bị can có quyền không buộc phải đưa ra chứng cứ chống lại mình và quyền đọc hồ sơ của bị can, bị cáo. Quy định này đang nhận được sự quan tâm của dư luận và có nhiều ý kiến trái chiều. Một luồng ý kiến cho rằng, quy định này để để bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân, hạn chế tối đa các trường hợp bức cung, n.hục h.ình, tạo điều kiện để bị can, bị cáo thực hiện quyền tự bào chữa đã được Hiến định. Ngược lại, các ý kiến khác lại cho rằng, không nên quy định cho bị can, bị cáo có các quyền này vì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Bị cáo phải được biết mình có những quyền gì
Liên quan đến vấn đề này, PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, nguyên Giám đốc Học viện Tư pháp cho rằng, Điều 48, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng đã có các quy định về quyền của người bị tạm giữ. Khoản 2 Điều này quy định rõ, người bị tạm giữ có quyền: Được biết lý do mình bị tạm giữ; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Trình bày lời khai; Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng….
PGS.TS Nguyễn Thái Phúc
Điều 49, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 cũng quy định, bị can có quyền: Được biết mình bị khởi tố về tội gì; Được giải thích về quyền và nghĩa vụ; Trình bày lời khai; Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này; Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; Được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này; Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
PGS.TS Nguyễn Thái Phúc cho rằng, trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) đã làm rõ hơn về quyền này, đó là người bị bắt, bị can, bị cáo có quyền từ chối không phải trình bày lời khai, có quyền không phải buộc đưa ra chứng cớ chống lại mình. “Tôi cho rằng đó là bước tiến trong Bộ Luật Tố tụng hình sự. Dự thảo đã làm rõ ràng hơn so với Bộ luật hiện hành, tạo điều kiện cho những người thực thi Bộ Luật này. Bản thân bị cáo, nếu họ nghiên cứu họ có thể hiểu rõ được mình có những quyền gì. Tôi cho rằng những bổ sung, sửa đổi đó là bước tiến rất đáng hoan nghênh”.
Phải hiểu đúng nội hàm “quyền im lặng”
Theo PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, để hiểu đúng về “quyền im lặng” trước hết phải hiểu cho đúng thuật ngữ này và đối chiếu với Bộ luật Tố tụng hình sự ở nước ta có các quyền như vậy hay không?. Khi nói đến quyền im lặng, người ta thường nói đến quyền này ở trong Bộ luật Tố tụng Hình sự của Hoa Kỳ. Muốn hiểu đúng quyền im lặng này chúng ta phải hiểu đúng quyền này trong luật pháp của Hoa Kỳ. Nói đến quyền này, nó liên quan đến một án lệ rất nổi tiếng trong lịch sử pháp luật tố tụng của Hoa Kỳ, đó là án lệ Miranda 1974. Trước đó, Hoa Kỳ cũng quy định cho bị can, bị cáo quyền được bào chữa trong đó có quyền có luật sư, quyền được từ chối các câu hỏi của cảnh sát cho đến khi nào có sự hiện diện của luật sư. Luật pháp Hoa Kỳ cũng đã quy định quyền đó, nhưng đến năm 1974, quyền này có thêm một nội hàm mới. Bởi lẽ từ án lệ Miranda, cảnh sát bắt một người tình nghi là Miranda thì họ đã lấy lời khai của người này mà không hề giải thích cho người bị bắt đó theo luật pháp họ có quyền từ chối các câu hỏi của cảnh sát cho đến khi nào họ có sự hiện diện của luật sư. Trong khi luật pháp quy phải cho người bị bắt biết họ có những quyền gì và lời khai của họ có thể sẽ được sử dụng như chứng cứ để chống lại chính họ.
Chính vì thế khi ra tòa, luật sư của Miranda đã yêu cầu Tòa không chấp nhận tất cả lời khai của thân chủ với cảnh sát vì ông ta cho rằng, cảnh sát đã không cung cấp cho ông ta các quyền tố tụng hình sự theo Hiến pháp, nên những lời khai đó không có giá trị. Những lập luật đó của luật sư được Tòa án tối cao của Hoa Kỳ chấp nhận, vì khi bị bắt, bị can không làm chủ được lời khai trong điều kiện họ không nhận thức được đầy đủ quyền hiến định của mình. Cho nên, lời khai đó không được chấp nhận để làm chứng cớ chống lại chính họ. Từ sau khi có án lệ Miranda, quyền bào chữa của bị can, bị cáo có thêm nội hàm nữa là quyền từ chối lời khai cho đến khi nào luật sư của mình xuất hiện. Tương ứng với quyền đó của người bị bắt, nghĩa vụ của cảnh sát là muốn lấy lời khai của người bị bắt, thì phải thông báo cho người bị bắt biết họ có những quyền gì theo quy định của pháp luật, trong đó có quyền được in lặng không trình bày lời khai cho đến khi có sự hiện diện của luật sư của họ.
Video đang HOT
“Như vậy, chúng ta hiểu rõ hơn quyền im lặng nó bao gồm 2 nội hàm. Thứ nhất quyền được trình bày lời khai. Người bị bắt, bị can, bị cáo thấy cần thiết trình bày lời khai thì họ trình bày, còn họ thấy không cần thiết trình bày khi chưa có sự hiện diện của luật sư của họ thì họ có thể từ chối cho đến khi có luật sư. Trong khoảng thời gian chưa có luật sư, không thể buộc họ phải trình bày lời khai, việc trình bày hay không là quyền của họ. Nội hàm thứ 2 là nghĩa vụ của cảnh sát khi thực hiện lời khai, phải thông báo đầy đủ cho người bị bắt biết họ các quyền như thế theo quy định của Hiến pháp và Luật Tố tụng hình sự. Chúng ta đi từ nội dung đó của pháp luật Hoa Kỳ đối chiếu với pháp luật Việt Nam, trong Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành, Điều 48, 49, 50 trong đó đều đã nói một số nội dung cơ bản giống như trong “quyền im lặng” của pháp luật Hoa Kỳ. Đó là quyền được biết lý do mình bị tạm giữ, quyền được biết mình bị khởi tố vì tội gì và quyền trình bày lời khai. Tôi cho rằng 2 nội hàm về “quyền im lặng” trong pháp luật Hoa Kỳ thực ra mà nói cũng đã đầy đủ trong Bộ Luật tố tụng hình sự 2003 của Việt Nam. Nhưng tôi hoan nghênh dự thảo lần này làm rõ ràng hơn”- PGS.TS Nguyễn Thái Phúc nói.
Trình bày lời khai là quyền chứ không phải nghĩa vụ của bị cáo
Trước nhiều ý kiến khác lại cho rằng, không nên quy định cho bị can, bị cáo có “quyền im lặng” để chờ người bào chữa vì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, PGS.TS Nguyễn Thái Phúc cho rằng, những ý kiến đó không thuyết phục cả góc độ lý luận và thực tiễn. Vì Luật pháp và Hiến pháp đã thừa nhận quyền trình bày lời khai, đó là sự chọn của người bị bắt, bị can bị cáo, họ có quyền quyết định theo ý định của họ mà họ cho rằng là tốt nhất đối với họ.
“Quyền trình bày lời khai là quyền chứ không phải nghĩa vụ. Quyền và sự lựa chọn thực hiện quyền là lựa chọn của người bị bắt, bị can, bị cáo. Nếu họ thấy điều này có lợi cho họ, họ sẽ hợp tác với cơ quan điều tra để trình bày lời khai. Họ tận dụng quyền này như một khả năng để bào chữa cho mình. Nếu như vì lợi ích nào đó, họ có quyền từ chối hoặc không trình bày lời khai, đó là quyền của họ. Thế nên, về quy định đó là quyền hoàn toàn chính đáng, không có gì vi phạm pháp luật”- PGS.TS Nguyễn Thái Phúc nói.
PGS.TS Nguyễn Thái Phúc cũng cho rằng, nếu nói “quyền im lặng” gây khó khăn cho cơ quan điều tra, cũng hoàn toàn đúng. Bởi trong trường hợp người bị bắt, bị can, bị cáo im lặng, không cung cấp thông tin gì cho cơ quan điều tra, không trả lời bất cứ câu hỏi nào của cơ quan điều tra sẽ gây khó khăn hơn cho cơ quan điều tra so với trường hợp người bị bắt, bị can, bị cáo trình bày lời khai. Họ trình bày lời khai cũng xảy ra các tình huống, các thông tin của họ khai sẽ giúp cho các cơ quan điều tra đáng kể để họ kiểm tra lại. Cơ quan điều tra có thêm thông tin vì không ai bằng người trong cuộc. Còn người bị bắt sẽ tận dụng cơ hội đó khai báo để được giảm nhẹ tội. Tình huống thứ hai, khi người bị bắt, bị can, bị cáo trình bày lời khai không đúng sự thật. Luật quy định họ không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu lời khai không đúng. Trong trường hợp này, nếu bị cáo trình bày lời khai gian dối cũng là một điều rất tốt cho cơ quan điều tra, bởi vì sẽ thêm được những thông tin để đối chứng. Qua lời khai gian dối đó, cơ quan điều tra cũng có thể hiểu được tâm lý của bị can, bị cáo và sự thật đằng sau những sự gian dối đó.
Có Tòa vẫn coi việc phản cung là tình tiết tăng nặng
Theo PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, có hình thức bị can, bị cáo im lặng, không trình bày lời khai thì rõ ràng là khó khăn, thách thức cho cơ quan điều tra. Tuy nhiên, không phải vì chuyện đó mà lại dùng bạo lực, t.ra t.ấn nhục hình, ép cung để bị can, bị cáo phải trình bày lời khai. Nếu làm như thế là vi Hiến. Trong trường hợp này, nếu bị can, bị cáo không phối hợp với cơ quan điều tra, chúng ta phải vượt lên tình huống này bằng chuyên môn nghiệp vụ. Điều tra viên giỏi họ sẽ biết cách tác động hợp pháp chứ không phải bằng cách đe dọa tâm lý. Họ sẽ tác động cho bị can thấy rõ, điều tốt nhất đối với bị can là hợp tác với cơ quan điều tra. Phải có cách tác động để cho bị can, bị cáo hợp tác với mình.
“Luật còn quy định rất nhiều nguồn chứng cứ khác, chứ không riêng lời khai của bị ban, bị cáo. Nên trong trường hợp bị can, bị cáo không khai thì vẫn có nhiều cách để chứng minh. Rất nhiều vụ án mà bị can, bị cáo kêu oan, không trình bày gì nhưng chúng ta vẫn có những chứng cứ để chứng minh”- PGS.TS Nguyễn Thái Phúc nói.
PGS.TS Nguyễn Thái Phúc cho rằng, trong trường hợp bị can khai báo thành khẩn, hợp tác với cơ quan điều tra để làm sáng tỏ vụ án thì được gọi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Còn nếu họ trình bày không đúng sự thật thì cũng không được coi đó là tình tiết tăng nặng. Tòa không được căn cứ vào đây để tăng nặng hình phạt cho bị can, bị cáo.
“Trong áp dụng pháp luật đã có một số Tòa án địa phương không tuân thủ quy định này của Bộ luật. Khi Tòa hỏi, bị cáo trình bày không đúng sự thật, có một số trường hợp thẩm phán đ.ánh giá thái độ đó của bị can, bị cáo là ngoan cố. Như thế là không đúng, theo quy định của luật không coi việc phản cung là tình tiết tăng nặng. Cho nên không coi đó là tăng nặng, nếu không làm như thế là không đúng tinh thần của Bộ luật Tố tụng Hình sự”- PGS.TS Nguyễn Thái Phúc nhấn mạnh./.
Minh Hòa
Theo_VOV
Dự án Bộ luật TTHS:Tránh "nhục hình" biến tướng người chưa thành niên?
Theo TS Luật Đỗ Thị Phượng, dự thảo luật quy định chặt chẽ sẽ tránh được tình trạng cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai, hỏi cung thông qua giờ trưa, bỏ đói người bị tạm giữ, bị can
Thủ tục đối với người chưa thành niên trong Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) đang được đưa ra lấy ý kiến được nhiều người quan tâm. TS. Đỗ Thị Phượng, Khoa Pháp luật hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội cho biết, so với Bộ luật hiện hành, dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) được đầu tư đặc biệt với thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên. Những nhóm vấn đề chính được sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo lần này, trước hết là sửa đổi phạm vi áp dụng của Chương này theo hướng không chỉ áp dụng với người chưa thành niên là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như hiện hành mà còn áp dụng đối với người chưa thành niên là người bị hại, người làm chứng.
TS. Đỗ Thị Phượng, Khoa Pháp luật hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội
Quy định cụ thể 7 nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với các vụ án liên quan đến người chưa thành niên; Bổ sung hai điều luật để quy định cụ thể cách xác định t.uổi của người chưa thành niên là người làm chứng, là người bị hại trong trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà không xác định được chính xác t.uổi của họ.
Đổi mới thủ tục lấy lời khai, hỏi cung và tiến hành đối chất người chưa thành niên trong tố tụng hình sự theo hướng quy định chặt chẽ việc tiến hành lấy lời khai, hỏi cung; địa điểm, thời gian lấy lời khai, hỏi cung phải bảo đảm phù hợp với tâm lý, thể trạng người chưa thành niên. Thời gian lấy lời khai, hỏi cung không quá hai lần trong một ngày và mỗi lần không quá hai giờ. Việc đối chất người chưa thành niên chỉ được tiến hành trong những trường hợp thực sự cần thiết để giải quyết vụ án.
Nhằm hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên, Dự thảo đã điều chỉnh căn cứ tạm giam theo hướng: Chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong trường hợp cần thiết. Chỉ áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả. Người từ đủ 14 t.uổi đến dưới 16 t.uổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam khi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý và có căn cứ xác định người này thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 93 của Bộ luật này. Người từ đủ 16 t.uổi đến dưới 18 t.uổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam khi phạm tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng và có căn cứ xác định người này thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 93 của Bộ luật này. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi bắt, tạm giữ, tạm giam, cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho người đại diện theo pháp luật của họ biết.
Bổ sung nhằm làm rõ việc tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật, nhà trường, tổ chức trong vụ án người chưa thành niên; ngoài quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại, đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra, tham gia phiên tòa như quy định hiện hành, bổ sung quyền của những người này được tham gia lấy lời khai, hỏi cung người chưa thành niên từ 16 t.uổi đến dưới 18 t.uổi.
Theo tôi, Dự thảo lần này đầu tư cho thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là thể hiện sự quan tâm đặc biệt của cả xã hội đối với người chưa thành niên dù họ là người bị buộc tội hay người bị hại, người làm chứng. Các hướng sửa đổi của Dự thảo lần này đối với người chưa thành niên đã đ.ánh dấu một bước phát triển quan trọng trong vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung và quyền của người chưa thành niên nói riêng trong tố tụng hình sự.
Là một người chuyên nghiên cứu về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên, những đóng góp khoa học của tôi trong nhiều năm qua về vấn đề này đã và đang được Dự thảo đề cập tới và tôi cho rằng Dự thảo lần này đã đáp ứng được yêu cầu lợi ích dành cho người chưa thành niên. Tuy nhiên, tôi vẫn mong muốn tiếp tục có một vài đóng góp để Dự thảo hoàn thiện hơn, đáp ứng tốt nhất những quyền và lợi ích của người chưa thành niên.
PV: Dự thảo có quy định về thủ tục lấy lời khai, hỏi cung và tiến hành đối chất người chưa thành niên trong tố tụng hình sự theo hướng quy định chặt chẽ việc tiến hành lấy lời khai, hỏi cung; địa điểm, thời gian lấy lời khai, hỏi cung phải bảo đảm phù hợp với tâm lý, thể trạng người chưa thành niên ... Theo bà những sửa đổi nêu trên đã đáp ứng được yêu cầu lợi ích tốt nhất dành cho người chưa thành niên hay chưa?
TS. Đỗ Thị Phượng: Việc đổi mới điều luật về việc lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng, hỏi cung, đối chất như trong Dự thảo là phù hợp. Tuy nhiên vềthủ tục lấy lời khai, hỏi cung cũng cần được quy định chặt chẽ hơn. Thời gian lấy lời khai, hỏi cung "không được quá hai giờ trong một lần, không được quá hai lần trong một ngày và mỗi lần cách nhau ít nhất là hai giờ". Quy định chặt chẽ như vậy sẽ tránh được tình trạng cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai, hỏi cung thông qua giờ trưa, bỏ đói người bị tạm giữ, bị can (một hình thức n.hục h.ình biến tướng) hoặc mặc dù vẫn đảm bảo việc lấy lời khai, hỏi cung hai lần trong một ngày nhưng thời gian quá sát nhau mà đôi khi hình thức chỉ được thể hiện bằng biên bản lấy lời khai, hỏi cung. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tinh thần của người chưa thành niên.
Bên cạnh đó, hoạt động lấy lời khai, hỏi cung của cơ quan tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên có bảo đảm được tính khách quan hay không phụ thuộc rất nhiều vào sự có mặt của người bào chữa, người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên. Dự thảo BLTTHS sửa đổi đã quy định việc người bào chữa, người đại diện theo pháp luật phải tham gia vào hoạt động lấy lời khai, hỏi cung của cơ quan tiến hành tố tụng, thì cũng cần bổ sung thêm "nếu vắng mặt người bào chữa, việc lấy lời khai, hỏi cung sẽ bị hoãn"để đảm bảo sự chặt chẽ của thủ tục tố tụng. Do đó, cần bổ sung thêm vào Điều 415 của Dự thảo là "Trong trường hợp người bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can vắng mặt thì cơ quan tiến hành tố tụng phải hoãn việc lấy lời khai, hỏi cung. Trong trường hợp người người bảo vệ quyền lợi hoặc đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên vắng mặt thì cơ quan tiến hành tố tụng phải mời đại diện nhà trường, đoàn thanh niên hoặc tổ chức khác nơi người chưa thành niên học tập, lao động và sinh hoạt tham dự".
Nhóm bị cáo chỉ bị tuyên phạt từ 4-15 năm tù do khi phạm tội chưa đến t.uổi thành niên. (Ảnh: internet)
PV: Bà đ.ánh giá như thế nào về quy định về việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên trong dự thảo luật lần này?
TS. Đỗ Thị Phượng: Qui định như trong Điều 413 Dự thảo BLTTHS sửa đổi là tương đối chặt chẽ, hạn chế được việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo chưa thành niên. Việc qui định trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi bắt, tạm giữ, tạm giam, cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho người đại diện theo pháp luật của họ biết cũng là một qui định mới thể hiện sự chặt chẽ của thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế và cũng là để bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất cho người chưa thành niên.
Tuy nhiên, nếu bị can, bị cáo đó là người chưa thành niên từ đủ 16 đến dưới 18 t.uổi phạm tội ít nghiêm trọng đã được giao cho gia đình giám sát nhưng có dấu hiệu bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội hoặc bị bắt lại theo lệnh truy nã thì giải quyết như thế nào? Trên thực tế hiện nay do Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không qui định nên việc áp dụng qui định này còn nhiều bất cập, vướng mắc. Chúng ta hạn chế việc tạm giam đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên nhưng vẫn phải bảo đảm thuận lợi cho các hoạt động tố tụng và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tố tụng khác (nhất là khi người bị hại lại là người chưa thành niên trong vụ án đó). Do đó chúng tôi kiến nghị: "Người từ đủ 16 t.uổi đến dưới 18 t.uổi bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm thì có thể bị tạm giam nếu họ bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc bị bắt lại theo lệnh truy nã."
PV: Trong những năm gần đây, vấn đề người chưa thành niên phạm tội có chiều hướng gia tăng và đáng báo động. Tuy nhiên, khi xét xử một số vụ án do người chưa thành niên gây ra thì nhiều ý kiến cho rằng hình phạt dành cho các bị cáo là người chưa thành niên chưa tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội. Theo bà Bộ luật lần này có khắc phục được những hạn chế như vừa nêu không?
TS. Đỗ Thị Phượng: Tôi cho rằng tình hình phạm tội của người chưa thành niên có chiều hướng gia tăng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ví dụ: về môi trường sống, sinh hoạt của người chưa thành niên, về các vấn đề xã hội đối với người chưa thành niên, về các biện pháp quản lý, giáo dục người chưa thành niên ngoài xã hội cũng như trong trại giam, trường giáo dưỡng đã thực sự tạo ra cho người chưa thành niên một môi trường lành mạnh để phát triển, tu dưỡng và rèn luyện để trở thành những con người lương thiện hay chưa? Sự phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án và chính quyền địa phương, đoàn thể, gia đình trong việc giám sát, giáo dục người chưa thành niên đã thực sự chặt chẽ chưa?... Chúng ta không thể chỉ trông chờ vào một bản án phạt tù thật nghiêm khắc mà chúng ta cần sự quan tâm đặc biệt, toàn diện của toàn xã hội đối với người chưa thành niên phạm tội mới có thể giảm được tình hình phạm tội ở người chưa thành niên.
PV: Xin cảm ơn bà./.
Minh Hòa
Theo_VOV
Kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình giải quyết án hình sự Tuần qua, Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi) là một trong những dự án luật quan trọng đã được các đại biểu Quốc hội (QH) bước đầu thảo luận ở tổ, xới xáo nhiều nội dung góp phần đẩy mạnh tiến trình cải cách thủ tục tố tụng tư pháp trong những năm tới. Trong Tờ trình trước QH, Ban soạn...