Chuyện đời đặc biệt của hai “công tử Bạc Liêu” xứ Thanh
Trong căn nhà gỗ 5 gian cũ kĩ, trống hoác, mối mọt, gió mùa đông lạnh ngắt cắt vào da thịt, ông Đặng K. Thịnh ngồi co ro trên giường với 2 lớp áo len xanh, đỏ rách vai phải và hở sườn trái, giọng trầm buồn kể về cuộc đời mình.
“Thời huy hoàng” của phú ông K.Bản
Theo lời tâm sự của “công tử” K. Thịnh, bố ông là thương nhân nổi tiếng Đặng K. Bản -người gốc Sơn Tây (Hà Tây cũ, Hà Nội ngày nay). Đoàn xe ngựa buôn hành của ông K. Bản trải dài từ Thanh Hóa ra tận đất Thăng Long – Hà Nội trong những năm 1930. Bấy giờ, hành xứ Thanh có tiếng chẳng kém gì tỏi trên đảo Lý Sơn nên rất được ưa chuộng, khách hàng chủ yếu của ông K. Bản phần lớn là người Hoa và người Pháp.
Ông Đặng K. Thịnh.
Không những buôn hành, ông K. Bản còn buôn thuố.c bắc và nồi đất. Nhiều cụ già ở làng Thịnh (Xuân Dương, Thường Xuân), Bái Đô, Bái Thượng (Xuân Bái, Thọ Xuân) đến nay vẫn còn nhớ tấm lòng nhân đạo của ông K. Bản bốc thuố.c chữa bệnh miễn phí, mở kho thóc cứu đói cho dân nghèo khi có hạn hán hoặc lũ lụt.
“Phú ông” K. Bản đối xử rất nhân hậu với gia nô, thậm chí còn làm mai, dựng vợ, gả chồng và cắt đất thưởng cho người làm trung thành, tận tâm với gia đình. Ruộng của “đại gia chân đất” K. Bản trải ngút ngàn không chỉ một góc trời Thanh Hóa mà còn “vươn ra” Hà Nội, “quẹo” về Ninh Bình và nối liền với Nghệ An… tiề.n ròng, bạc đống chẳng kém gì “ công tử Bạc Liêu”…
“Đại gia” K. Bản đã gặp đại nạn…
Vào cuối những năm 1940 khi liên tục bị bạn hàng và khách hàng gian lừ.a đả.o, khiến gia đình K.Bản phải tán gia, bại sản . Ruộng đất mất sạch, tài sản, nhà cửa bị xiết nợ, để tránh bị “tru.y sá.t”, thương gia buôn hành lừng lẫy một thời phải nửa đêm vạch lau sậy, bơi qua dòng sông Chu lạnh ngắt trốn ra Hà Nội lánh nạn.
Mếu máo như trẻ lên 3, “công tử” K.Thịnh vịn hai bàn tay già gầy guộc, lấm chấm vết đồi mồi lên vai phóng viên báo Đời sống & Pháp luật nói đứt quãng: “Đêm đó, người ta đốt đuốc, cầm dao, sún.g kéo đến đông lắm, bố em (ông Thịnh luôn xưng em với người khác) phải chạy ra ngoài Hà Nội để trốn không thôi là b.ị giế.t chế.t, còn mẹ em thì dắt hai anh em chạy ra bãi đá ngoài bờ sông trốn trong bãi lau sậy.”
Ông Thịnh cho biết sau khi gia đình tán gia bại sản người anh ruột của ông là K.Phú đang học một trường danh giá dành cho con cái nhà tiểu tư sản có giáo viên người Pháp dạy phải bỏ học giữa chừng. “Công tử” K. Phú rất thông minh, thông thạo tiếng Pháp và vẽ rất giỏi.
Anh em K. Phú – K. Thịnh hơn 50 năm gánh nước thuê rau cháo nuôi nhau
“Anh Phú nhà em giỏi tiếng Pháp lắm, vẽ đẹp lắm,” ông em K.Thịnh tự hào kể về anh trai.
“Thế cụ có biết nói tiếng Pháp và vẽ không ạ?,” phóng viên hỏi- “Em có mà nói ăn, em biết vẽ nhưng không đẹp bằng anh Phú, nhà mất hết đất em đang học lớp 1 thì phải bỏ” ông K. Thịnh cười trả lời.
Ông tâm sự về cuộc đời với phóng viên
Sau khi đi bộ đội kháng Pháp trở về từ chiến trường Điện Biên Phủ (ông K. Phú làm thông ngôn cho quân đội ta), ông K. Phú và em út K. Thịnh làm đủ nghề để mưu sinh trong đó có cả đi cày ruộng thuê, nhưng sau đó con bò của hai anh em chế.t bệnh nên họ không còn công cụ lao động đâ.m ra thất nghiệp. Bấy giờ, theo lời ông Thịnh kể – khoảng năm 1956, tài sản có giá trị nhất trong nhà là đôi thùng gánh nước mà ngày xưa gia nô thường gánh nước cho gia đình.
Video đang HOT
Ông K. Phú bắt đầu dẫn em trai K. Thịnh đi làm nghề rất cực nhọc để lần từng bữa qua ngày… gánh nước thuê. Kể từ đó (năm 1956) đến năm 2007, ngày nào người dân hai bên bờ sông Chu cũng đều thấy hai người đàn ông dáng hình nhỏ gầy – con của một phú ông nức tiếng giàu có một thời sóng bước cùng nhau với 2 thùng nước nặng kẽo kẹt trên vai.
Không quản ngại nắng, mưa, đông, hè, từ sáng tinh mơ gà gáy cho đến khi gà mặt trời lặn xuống núi Bù Xèo ông Phú, ông Thịnh đều cố hết sức mình để chum, vại đựng nước của những gia đình thuê gánh được đầy ứ.
Nếu xét kỉ lục Guiness về người làm nghề gánh nước thuê trên thế giới, rất có thể, cặp anh em Phú – Thịnh xứng đáng được đề cử vì họ liên tục hành nghề trong suốt hơn 50 năm.
Dù rất làm rất vất vả, nhưng tiề.n công trả mà người ta trả cho 2 ông rất rẻ không thể đủ ăn. “ngày trước, hai anh em đi gánh nước, chỉ được mấy ngàn động một ngày, có hôm chỉ ăn được một bữa, có hôm đói vàng mắt vì người ta nợ lại,” ông Thịnh nhớ lại.
Ông Phú là người – mà theo người dân địa phương kể – cư xử rất người lớn đối với em trai, luôn tỏ ra nhã nhặn, lịch sự và giao tiếp có văn hóa với mọi người. Khi em trai K.Thịnh mệt, anh Phú đều gánh đỡ cho em, tết đến dù rất nghèo, nhưng ông Phú luôn dành tiề.n để mua quần áo mới cho em, còn ông thì luôn mặc đồ cũ.
Ông Phú không bao giờ nói nặng hay bạo lực với em trai, khi em Thịnh có lỗi, anh trai thường nhẹ nhàng nhắc nhở, phân tích đúng sai để K. Thịnh hiểu. “Anh Phú thương em lắm, không bao giờ ăn cơm trước em, có cái bánh khô (ngoài Bắc gọi là bánh đa) cũng chia cho em, hai anh em thương nhau lắm, ăn, ngủ và đi làm đều cùng nhau.”
Không những được người dân yêu quí, hai ông già gánh nước thuê còn được tr.ẻ e.m xem như bạn thân. Cứ sau mỗi lần đặt thùng nước xuống nghỉ mệt ở một trường học nào đó, lập tức- nếu khi đó đang giờ ra chơi – học sinh sẽ ùa đến “quây kín” 2 ông già nhỏ thó, đưa phấn, bảng, bút và giấy, rồi chúng lao xao như ong vỡ tổ: “ông Phú vẽ cho cháu con ngựa, ông Thịnh vẽ cho cháu con gà, ông vẽ Tôn Ngộ Không không, siêu nhân đi ông ơi”
Dù đang rất mệt nhọc nhưng khi trông thấy nụ cười và ánh mắt trẻ thơ hân hoan cầm trên tay tác phẩm hội họa của mình, hai ông đều thấy nhẹ nhõm và yêu đời hơn.
Dân có giếng và máy bơm nước – hai “công tử” thất nghiệp chuyển “nghề cái bang”
Suốt hơn 50 năm hai “công tử” Phú – Thịnh chỉ dùng duy nhất 2 đôi thùng đúc bằng nhôm Pháp, rất bền. Nhưng rồi, đến những năm 2000, kinh tế phát triển, người dân đào, khoan giếng, bắt máy bơm nước, không còn ai thuê gánh nước, hai anh em ông Phú – Thịnh trở thành kẻ thất nghiệp, đến nỗi phải bán đồ nghề để cứu đói khẩn cấp.
Ông Đặng K. Thịnh trên con đường heo hút về nhà.
Sau khi giã biệt đôi thùng gánh nước, hai thân già héo hon phải dắt dìu nhau, khoác túi, đeo bị đi khắp nơi, điểm dừng thường là chợ, cổng chùa để xin ăn. Xin ăn không đủ sống, họ phải tìm đến những bãi rác để moi, móc bì xi măng, túi nhựa, lon nhôm đựng đồ uống và cả đến những lò rèn, cửa hàng sửa xe đạp, xe máy “xin” nhặt sắt vụn để bán kiếm đồng rau, đồng cháo sống qua ngày.
“Đói cho sạch, rách cho thơm”, hai anh em họ chưa bao giờ lấy đắt tiề.n công thuê gánh nước, cũng chưa bao giờ xin thêm khi người khác “bố thí”, họ luôn cử xư đúng khuôn phép con nhà có lễ giáo, lịch sự và văn hóa, thường khiêm nhường xưng “em” với người khác dù cho họ ít tuổ.i hơn.
Ông K. Phú đã mất cách đây 6 năm (thọ 88 tuổ.i), giờ chỉ còn một mình ông em K.Thịnh (75 tuổ.i), ngày lại ngày một mình cô đơn xách làn nhựa, lê đôi dép cọc cạch rách tả tơi, như cánh vạc gầy xác xơ khóc khúc bi ai của đoạn cuối cuộc đời….
Theo Đất Việt
Người từng thách đấu Công tử Bạc Liêu đốt tiề.n nấu chè: Ngày tàn của một ông hoàng
Chia tay bà Phùng Há, cuộc sống của George Phước chỉ còn là chuỗi ngày ăn chơi vô độ. Số ruộng đất, tài sản còn lại vì vậy mà nhanh chóng tiêu tan. Ngôi nhà đồ sộ ở thành phố Mỹ Tho, rồi rạp hát Huỳnh Kỳ lớn nhất miền Tây cũng bị bán cho người khác.
Hết tiề.n, bị cơn nghiệ.n hành hạ, George Phước sống lang thang như kẻ ăn mày, rồi gục chế.t mà không có đất chôn.
Không kịp thực hiện lời nguyền
Sau khi chia tay bà Phùng Há, George Phước càng ăn chơi vô tội vạ và bắt đầu lao vào nghiệ.n ngập. George Phước dẹp gánh hát Huỳnh Kỳ, bán nốt mấy chiếc ghe bầu để lấy tiề.n ăn chơi tiếp. Rồi nhà cửa, ruộng đất ở Mỹ Tho, Chợ Gạo cũng lần lượt bị ông ký bán. Khi không còn gì để bán, không có tiề.n thuê nhà, ông ra đường và sống lang thang trong vườn Ông Thượng (công viên Văn Hóa TPHCM ngày nay) cùng với những người ăn xin khác.
Trong cả cuộc đời ăn chơi vô độ và hào phóng, George Phước có nhiều bạn bè, nhiều người thọ ơn ông. Ông hoàn toàn có thể nhờ cậy một chỗ tá túc, thậm chí cả chuyện ăn uống, chữa trị bệnh tật. Thế nhưng, ông không làm thế do lỡ mắc một "lời nguyền".
Ngày còn ngồi trên cả đống tiề.n của, có kẻ hầu người hạ, trong những cuộc ăn chơi vô độ, George Phước thường tuyên bố trước bạn bè rằng, nếu sau này ông sạt nghiệp, trở nên nghèo khó, ông sẽ tự tay lái chiếc xe hơi chạy ra Cấp (Vũng Tàu) và đâ.m đầu xuống biển để chế.t theo xe, chứ nhất định không nhờ vả vào ai.
Cái nghèo đã ập đến quá nhanh, khi giật mình nhận ra đã "sạt nghiệp" thì George Phước cũng chẳng còn chiếc xe hơi nào.
Mộ George Phước (màu sậm) được bà Phùng Há làm lại năm 1999
Giữ đúng "lời nguyền" ngày trước, ông nhất định không nhờ vả ai. Hết tiề.n ăn chơi, nhà cửa không còn, lại nghiệ.n nặng, thân tàn ma dại, ông sống cảnh lang thang rày đây mai đó ở Sài Gòn và trải qua những ngày tháng cuối đời như kẻ vô hồn trong vườn Ông Thượng.
Vườn Ông Thượng, một khu vườn rộng nằm ở trung tâm TPHCM hiện nay có tên là Công viên Văn Hóa TPHCM (đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1).
Từ năm 1950 đến cuối thập niên 1970 khu vườn có tên là Vườn Tao àn. Trước đó nữa khu vườn này có tên là "vườn Ông Thượng".
Khoảng đầu thế kỷ 19, Tổng trấn Gia ịnh là Lê Văn Duyệt đã lập ra tại đây một vườn cây cảnh để thỉnh thoảng ông cưỡi ngựa đến thưởng lãm, từ đó dân gian quen gọi nơi này là "vườn Ông Thượng". Khi Pháp xâm chiếm nước ta, khu đất này trở thành khuôn viên Dinh Toàn quyền Pháp ở Đông Dương.
Năm 1869, người Pháp cho xây con đường Miss Clavell tách khu vườn khỏi dinh, đặt tên khu vườn là "Jardin de la Ville", nhưng người Sài Gòn vẫn gọi đó là "vườn Ông Thượng".
Đến thập niên 1940, vườn Ông Thượng trở thành công viên chính của Sài Gòn với hàng ngàn cây xanh cổ thụ. Khu vườn là nơi vui chơi, giải trí, tập luyện thể thao của người dân thành phố. Đây cũng là chốn nương thân của tr.ẻ e.m lang thang, những người cơ nhỡ, những băng nhóm bụi đời.
Chế.t trong nghèo khổ, cô độc
George Phước đã sống nghèo khổ, bệnh tật lay lắt nhiều tháng trời trong vườn Ông Thượng. Cho tới 1 ngày ông không thể ngồi dậy để đi xin thuố.c, ông chỉ còn nằm chờ chế.t.
Tình cờ một người bạn đồng hương Mỹ Tho của ông tên là Nguyễn Hoàng Phi (cha của ông Phi trước là huyện Chung từng là bạn thân của Đốc phủ Sủng - cha của George Phước) phát hiện George Phước đang nằm chờ chế.t trong vườn Ông Thượng. Ông Phi đã đưa người bạn nghiệ.n ngập, nghèo khó về quê nhà Chợ Gạo (Mỹ Tho) để chăm sóc, chữa bệnh.
Có người cho rằng, việc đưa George Phước về nhà ông Phi ở Chợ Gạo là do sự sắp xếp của bà Phùng Há, vì lúc đó dù bà đã có chồng khác, nhưng vẫn theo dõi chuyện suy sụp, nghèo khổ của người chồng cũ và tìm cách giúp đỡ.
Bà không thể trực tiếp lo cho người chồng cũ, nên đã nhờ ông Phi (từng là bạn của bà và George Phước) đứng ra lo cho "ông hoàng" đã sa cơ. Có thể, nếu còn tỉnh táo thì George Phước đã từ chối sự giúp đỡ của ông Phi, thà nằm chế.t ngoài đường còn hơn nuốt "lời nguyền" nhờ vả người khác, dù đó là bạn thân.
Một chiều cuối năm 1949, trên chuyến xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, George Phước đã trở về cố hương Mỹ Tho sau nhiều năm xa cách.
Ngày rời khỏi Mỹ Tho ông là một "ông hoàng" ruộng đất cò bay thẳng cánh, nhà cao cửa rộng. Giờ ông trở về cố hương trong nghèo khó, bệnh tật, ông buộc phải sử dụng xe lửa - một phương tiện bình dân mà ngày xưa ông không thèm bước chân lên.
George Phước được ông Nguyễn Hoàng Phi đưa về nuôi nấng, chữa trị trong ngôi nhà ở thị trấn Chợ Gạo (nay là trụ sở của một cơ quan huyện Chợ Gạo), lúc ấy ông chỉ còn da bọc xương.
Nếu với tâm lý thoải mái, còn yêu thương cuộc sống, còn khao khát ở lại với đời, có thể George Phước đã vượt qua hoàn cảnh trong sự giúp đỡ tận tình của người bạn tên Phi.
Thế nhưng, khi tỉnh táo nhận ra mình phải nuốt lời nguyền, sống nhờ vào người khác, George Phước đã bị giày vò, cùng với những cơn đói thuố.c triền miên, rồi bệnh tật kéo dài, ông đã chế.t sau đó mấy tháng, vào khoảng giữa năm 1950, khi mới 49 tuổ.i.
George Phước qua đời không có người thân nào bên cạnh, ngoài người bạn tên Phi. Bên quan tài không một chiếc khăn tang, lúc động quan không có tiếng khóc của người ở lại.
Hầu hết người ông quen biết đều sống ở Sài Gòn, thời ấy thông tin liên lạc khó khăn, giao thông cách trở, vì vậy mà không ai có thể từ Sài Gòn vượt gần 100 cây số đến Chợ Gạo tiễn đưa một "ông hoàng" đã sa cơ.
Ông Phi mua cho người bạn vắn số chiếc áo quan bằng gỗ tốt, th.i hà.i được quàn tại nhà 1 ngày đêm, trước khi được xe thổ mộ chở về ấp Thạnh Khiết, xã An Thạnh Thủy cách đó chừng 5 cây số để chôn.
Chiếc xe thổ mộ chạy trên con đường đá lởm chởm, hai bên đường là những thửa ruộng một thời thuộc sở hữu của Đốc phủ Sủng, về sau được George Phước thừa kế.
Những cánh đồng cò bay thẳng cánh ấy giờ đã thuộc về người khác, nên xe phải chở quan tài đi thật xa mới có chỗ để chôn, trên phần đất nằm trong góc khuất của gia đình ông Phi. Một nấm đất nhỏ được đắp lên vội vã để chôn vùi một con người từng ăn chơi khét tiếng vùng đất Nam Bộ, bên trên không có tấm bia mộ nào.
Ngôi mộ đất "vô chủ" ấy nằm trong góc khu vườn vắng không thay đổi hiện trạng trong suốt gần 50 năm. Cho đến một ngày cuối năm 1999 khi bà Phùng Há tìm đến.
Trước khi tuân theo mệnh trời đi về cõi vĩnh hằng, bà Phùng Há đã tới nơi chôn cất người chồng cũ để xây lại cho ông một ngôi mộ đàng hoàng.
Theo Thanh Thủy
Lao động
Chuyện người thách đấu Công tử Bạc Liêu đốt tiề.n (kỳ 2): Chuyện tình George Phước - NSND Phùng Há Là người giàu có, ăn chơi phóng túng, lại mê sân khấu cải lương, nên khi gặp cô đào hát vang danh thời đó là "cô Bảy Phùng Há" (NSND Phùng Há sau này), George Phước đã quyết chinh phục cho bằng được... Họ thành vợ chồng và trong thời gian 7 năm có với nhau 2 đứa con. Họ đã có công...