Chuyện đời, chuyện nghề của những nữ nhà báo
Đã có những lúc chị tính đến việc tìm một công việc khác, ít áp lực hơn nhưng “nghề báo giống như cái duyên, cái nợ nên chưa thể dừng lại được”. Vậy là lại đi, lại viết, lại đam mê và lại sống với nghề…
Nhà báo Chu Thị Khánh Ly: Thấy có lỗi với con
Khởi nghiệp làm báo từ một người đọc morat tại Phòng Thư ký Báo Nghệ An, 10 năm trong nghề, nhà báo Chu Thị Khánh Ly trải qua rất nhiều cung bậc cảm xúc. Từ một người đọc morat, cảm nhận đời sống xã hội qua từng bài viết của đồng nghiệp, khi được phân công đi viết bài, một chân trời mới đã mở ra với Chu Thị Khánh Ly.
Nhà báo Chu Thị Khánh Ly.
“Tôi vẫn còn nhớ sự kiện đầu tiên mà mình tham gia với tư cách của một người phóng viên. Đó là vụ chìm đò Chôm Lôm (Con Cuông, Nghệ An) vào năm 2006. Chưa đi, chưa lường trước được vấn đề nên vẫn cứ nghĩ lên đó làm một cái tin rồi về. Chẳng chuẩn bị gì ngoài bộ quần áo trên người, máy ảnh, máy tính và cuốn sổ.
Lên đến nơi, cảnh tượng trước mắt hoàn toàn khác xa với những gì mình nghĩ. 19 em học sinh chết và mất tích. Không khí tang thương bao trùm cả một quãng sông. Bám sự kiện, tôi quyết định ở lại. 1 tuần lễ bám sông, bám các đội cứu hộ để đưa tin, viết bài phản ánh với duy nhất một bộ quần áo dài trên người. Giờ nghĩ lại vẫn còn thấy sống mũi cay cay”.
Chuyến tác nghiệp đầu tiên trong đời làm báo đã để lại cho chị nhiều suy nghĩ về nghề, về trách nhiệm của người làm báo đối với đời sống xã hội. Và hơn hết, đó là sự thấu hiểu, sẻ chia giữa con người với con người.
Khi còn độc thân, chị có thể bay nhảy với những chuyến đi tác nghiệp kéo dài cả tuần lễ. Nhưng sau khi lấy chồng, sinh con, hàng trăm thứ việc không tên của người vợ, người mẹ đã khiến công việc vốn đã chịu nhiều áp lực của chị vất vả hơn gấp bội. Chồng chị công tác xa, chị nhiều khi phải đi từ mờ đất và trở về khi đồng hồ đã điểm sang 2-3h sáng, chị thấy mình có lỗi với các con ghê gớm.
“Nhiều hôm, chở con đến trường, con luôn dặn duy nhất một câu: “Mẹ nhớ đón con sớm nhé”. Mong ước nhỏ nhoi đó của con chị cũng ít khi làm được; hầu như phải nhờ anh em, đồng nghiệp đón con hộ. Có hôm không thể nhờ được ai, xong công việc, chạy xe đến trường khi trời đã tối, thấy con đang ngồi khóc một mình nơi cầu thang trường học, mẹ cũng chỉ biết ôm con mà khóc”, chị tâm sự.
Đã có những khi con ốm, công việc lại bắt buộc phải hoàn thành đúng thời hạn khiến chị phải quay như chong chóng, nhất là những dịp Lễ, Tết. Áp lực công việc khiến có lúc chị tưởng chừng mình gục ngã hay phải bỏ cuộc. Nhưng may mắn, chồng chị là người thấu hiểu, thông cảm và chia sẻ với công việc của vợ.
Là phụ nữ, lại được phân công những lĩnh vực “xương” như thời sự hay giải quyết đơn thư của bạn đọc, chị cũng sợ công việc sẽ khiến mình bớt đi một chút dịu dàng, nữ tính của phụ nữ. Nhưng rồi, bản năng làm vợ, làm mẹ đã giúp chị cân bằng giữa công việc và gia đình. “Cuối tuần, dù không có thời gian nhưng tôi vẫn cố gắng sắp xếp để cả nhà đi chơi với nhau một buổi. Chỉ là loanh quanh ở các khu vui chơi thôi, nhưng đó cũng là cách mình bù đắp cho chồng, con những thiệt thòi khi có vợ, có mẹ là nhà báo”.
Video đang HOT
Vào nghề từ năm 2000, sau hơn 1 năm công tác tại một tờ báo địa phương, Hồ Hà xin nghỉ để dành thời gian chăm sóc cho tổ ấm của mình khi đứa con đầu chào đời. Con dần cứng cáp, năm 2003, Hồ Hà quyết định quay lại với nghề và công tác tại Báo Gia đình – Xã hội với chức trách của phóng viên thường trú phụ trách địa bàn.
Nhà báo Hồ Hà bật khóc khi nói về những thiệt thòi của con trai mình khi có mẹ làm báo.
“Phụ nữ làm báo khổ. Phụ nữ làm thường trú còn vất vả hơn bội phần. Tòa soạn ở xa, nhiều lúc cảm thấy mình đơn độc trong nghề, nhất là những khi dấn thân vào các vụ điều tra tiêu cực. Vất vả, khó khăn và cả hiểm nguy để có thể tìm ra được sự thật. Thế nhưng, cái giá của công việc cũng khiến chị mệt mỏi, hoang mang khi nhận được những cú điện thoại hay tin nhắn với lời lẽ hăm dọa. Nhất là khi những kẻ ấy cứ nhằm vào người thân hay hạnh phúc gia đình chị. Phụ nữ làm báo thường trú, nếu không có bản lĩnh thì sẽ không làm nổi”, nhà báo Hồ Hà tâm sự.
Làm báo thường trú, chị gần như phải căng như dây đàn mới có thể kham nổi khối công việc khổng lồ của một phóng viên, nhân viên văn phòng và phát hành. Bởi vậy, hơn 10 năm thường trú, với chị, hai từ “chỉ tiêu” vẫn là nỗi ám ảnh lớn nhất khi phải đối diện với áp lực của báo mạng, báo tờ và đặc san miền núi mà tòa soạn giao cho. Ám ảnh đến nỗi, nhắm mắt lại hay mở mắt ra cũng chỉ thấy 2 từ chỉ tiêu!
Đã có những lúc chị tính đến việc tìm một công việc khác, ít áp lực hơn nhưng “nghề báo giống như cái duyên, cái nợ nên chưa thể dừng lại được” như chị nói. Vậy là lại đi, lại viết, lại đam mê và lại sống với nghề. Nhưng lẽ đời, khó mà chu toàn được công việc và gia đình, nhất là đối với những người phụ nữ làm báo.
Trong cuộc trò chuyện của chúng tôi, không ít lần chị bật khóc khi nói về các con của mình. Chị gọi chồng, con mình là “hậu phương”. Nếu không có sự thấu hiểu và sẻ chia của chồng, của cậu con trai sớm trưởng thành so với các bạn cùng lứa, chị bảo, mình sẽ khó mà hoàn thành được một “núi” công việc của một phóng viên thường trú.
“Người khiến chị mắc nợ nhiều nhất là cậu con trai 11 tuổi. Công việc cứ cuốn mình đi nên thằng bé chưa có được một buổi đi chơi đúng nghĩa hay đơn giản như một buổi đi xem xiếc như các bạn. Nguyên tắc trong công việc nên chị cũng nguyên tắc đến khắc nghiệt với con. Nhiều khi nghĩ, tội con lắm nhưng may là thằng bé sớm hiểu và thông cảm với công việc của mẹ”, đôi mắt chị đỏ hoe.
Nhà báo Hiền Lương: Mắc nợ với con
Công tác tại Báo Lao động Nghệ An, mặc dù là tờ báo tuần nhưng áp lực công việc mà cán bộ, phóng viên ở đây không vì thế mà nhẹ nhàng hơn những tòa soạn khác. Là tờ báo được “đóng đinh” bằng những bài viết chống tiêu cực, bởi vậy công việc của những biên tập viên như nhà báo Hiền Lương cũng chịu không ít khó khăn, trở ngại.
Nhà báo Hiền Lương (người ngồi) cùng đồng nghiệp kiểm tra bản thảo lần cuối trước khi in.
Mỗi tuần 1 số báo, vỏn vẹn 12 trang thôi nhưng công việc gần như tất bật suốt cả tuần. Nhưng “nặng nề” nhất vẫn là thời điểm sát ngày ra báo. Đó là những ngày căng mắt ra đọc hàng tập hồ sơ. Là những hôm làm việc đến gần nửa đêm để kịp thời ra số báo mới. Hay là những khi báo đã lên khuôn nhưng vẫn lấn cấn một vài chi tiết. Vậy là lại chong mắt lên, huy động mọi nơ-ron thần kinh để kiểm tra tài liệu. Cảm thấy chưa thực sự chắc chắn lại phải gỡ bài và ngay lập tức phải tìm bài thay thế.
Nói thế để thấy công việc của biên tập viên không hề nhàn rỗi mà trái lại vất vả, áp lực như bất kỳ một phóng viên nào. Bởi vậy, gần sát ngày ra báo, Hiền Lương và những đồng nghiệp trong tòa soạn chỉ về nhà khi sắp bước sang ngày mới. Cứ đều đặn như thế, thậm chí, vào những dịp ra số báo đặc biệt thì gần như cả ngày vợ chồng, con cái chẳng nhìn thấy mặt nhau bởi vì về đến nhà thì các con cũng đã ngủ từ lúc nào.
“Nhiều hôm nghe hai đứa con nói mà trào nước mắt. Sáng mai, mở cửa đi làm, hai đứa ôm chân mẹ phụng phịu “con không thích mẹ đi làm về muộn”. Lại phải dỗ dành: mẹ đi làm kiếm tiền nuôi các con ăn học. Mãi rồi chúng cũng quen, đến giờ là đi ngủ, chẳng đợi mẹ về như trước đây nữa. Thương con nhưng công việc như vậy cũng chẳng biết làm thế nào khác. Vào dịp cuối tuần đưa con đi chơi, như một cách để “đền bù”, chị chia sẻ.
Trách nhiệm của người mẹ, người vợ, người con dâu trong gia đình với bao nhiêu thứ việc không tên lẫn có tên, họ – những người phu nữ làm báo vẫn phải chu toàn. Phụ nữ làm báo vất vả không thể nói hết nhưng với lòng yêu nghề, say nghề và tâm huyết với nghề, họ vẫn tiếp tục bước đi trên con đường mình đã chọn. Bởi họ biết, đằng sau mình luôn có “hậu phương” vững chắc và phía trước mình là niềm tin của độc giả. Chỉ cần từng ấy thôi, những người phụ nữ mảnh dẻ và có phần yếu đuối cũng mạnh mẽ hơn rất nhiều trong nghề “phu chữ”.
Theo Dantri
Những "món nợ" chưa trả được dân
Trình bày báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi Quốc hội tại phiên chất vấn chiều 10/6, Trưởng Ban dân nguyện Nguyễn Đức Hiền cho biết, cử tri cả nước đã gửi đến Quốc hội 2.195 kiến nghị.
Giấc mơ tàu lớn để vươn khơi của ngư dân và giấc mơ trồng lúa lãi 30% của nông dân vẫn là bài toán phải giải trong tương lai.
Ngư dân được vay tối thiểu 200 triệu đồng/năm
Một vấn đề được tập trung thể hiện là về việc giải quyết khó khăn trong sản xuất và đời sống của ngư dân. Đến nay, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ban hành chính sách thí điểm hỗ trợ ngư dân đóng tàu vỏ thép khai thác hải sản xa bờ tại Quảng Ngãi; chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp, với mức lãi suất cho vay thấp nhất theo quy định của pháp luật trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Tại kỳ họp này, Quốc hội cũng đã quyết định dành khoản ngân sách 16.000 tỷ đồng để hỗ trợ ngư dân đóng tàu đánh bắt xa bờ; đóng tàu, trang thiết bị cho cảnh sát biển, lực lượng kiểm ngư. Nhà nước cũng bố trí nguồn vốn tín dụng ưu đãi với lãi suất thấp để hỗ trợ ngư dân đóng mới tàu thuyền, trong đó có tàu vỏ thép có công suất lớn, trang thiết bị hiện đại, với lãi suất 3-5%/năm; trong đó ngư dân đóng tàu vỏ thép, vật liệu mới được vay tối đa 90% tổng số vốn, thời hạn vay 10 năm; đóng tàu vỏ gỗ, với mức cho vay 70% tổng giá trị vốn đầu tư.
Ngư dân sử dụng tàu khai thác được cấp vốn lưu động tối thiểu 200 triệu đồng/năm và 500 triệu đồng/năm đối với tàu dịch vụ hậu cần cho đánh bắt xa bờ. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã công bố gói tín dụng 3.000 tỷ đồng cho ngư dân vay với lãi xuất thấp để đóng tàu công suất lớn và mua sắm trang thiết bị phục vụ đánh bắt hải sản xa bờ.
Bộ Tài chính phối hợp với Bộ NN-PTNT và các bộ, ngành có liên quan đã nghiên cứu, trình Thủ tướng ban hành chính sách hỗ trợ đóng tàu mới, công suất lớn và trang bị hiện đại, giúp ngư dân hoạt động đánh bắt xa bờ đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo. Bộ NN-PTNT cũng đã xây dựng dự thảo chính sách hỗ trợ ngư dân phát triển mô hình tổ chức sản xuất trên biển theo mô hình tổ, đội đoàn kết để gửi xin ý kiến các bộ, ngành, các địa phương.
Qua thực tế giải quyết kiến nghị của cử tri, UB Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ, bộ, ngành tiếp tục quan tâm, có giải pháp hữu hiệu nhằm tháo gỡ khó khăn về sản xuất và đời sống của ngư dân vùng biển đảo. Tiếp tục đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng vùng biển, đảo, nhằm phát triển sản xuất, nâng cao đời sống cả về vật chất và tinh thần của ngư dân, góp phần phát triển kinh tế gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của tổ quốc.
Giấc mơ trồng lúa lãi 30% vẫn là... mơ
Về kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri để giải quyết khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo, bảo đảm cho người nông dân sản xuất có lãi trên 30%, Trưởng Ban dân nguyện Nguyễn Đức Hiền cho biết, các chính sách đã ban hành và triển khai thực hiện trong thời gian qua đã phát huy hiệu quả tích cực, góp phần quan trọng và phát triển sản xuất nông nghiệp.
Qua giám sát, kết quả cho thấy, hàng năm Việt Nam sản xuất được khoảng 44 triệu tấn thóc, trong đó 1 triệu tấn làm giống, 20 triệu tấn làm lương thực cho người, 1 triệu tấn dự trữ và 15 triệu tấn thóc để xuất khẩu.
Trong năm 2013, cả nước đã gieo trồng được 7,9 triệu ha lúa, năng suất trung bình đạt 55,8 tạ/ha, với tổng sản lượng lúa thu được là 44,05 triệu tấn. Về diện tích gieo trồng và sản lượng lúa tăng hơn so với năm 2012, nhưng năng suất lại giảm hơn so với năm trước.
Canh tác manh mún, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp vẫn còn phải nhập khẩu với tỷ lệ lớn, khoảng 65% phân đạm, 35% phân lân và 100% phân kali, giá cả tăng cao, nên người dân còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ lúa gạo.
Năm 2013 thu nhập bình quân của người dân nông thôn tại một số địa phương ước đạt 19,97 triệu đồng, gấp 2,18 lần so với mức 9,2 triệu đồng năm 2008 (loại trừ yếu tố trượt giá thì thu nhập của người dân nông thôn năm 2013 tăng 36% so với năm 2008, bình quân mỗi năm tăng 6,4%).
Tuy nhiên, việc bảo đảm cho người nông dân sản xuất lúa có lãi mới chỉ đạt được ở một số địa phương và không đồng đều giữa các địa phương khác nhau.
Theo số liệu tổng hợp của 21 tỉnh thành cho thấy, có tới trên 42% số địa phương người nông dân sản xuất lúa có lãi dưới 30%, có địa phương chỉ lãi trên 10% và cũng còn địa phương người nông dân sản xuất lúa chưa có lãi.
Mặc dù là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, nhưng việc tổ chức sản xuất lúa gạo vẫn còn nhỏ lẻ, chủ yếu theo hộ gia đình, mà chưa có sự liên kết, chưa có cánh đồng lớn, nhất là tại các vùng Đồng bằng sông Hồng, các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Vì vậy, việc áp dụng cơ giới hoá trong sản xuất còn rất hạn chế; nguyên liệu đầu vào như giống, phân bón, thuốc trừ sâu và các loại vật tư nông nghiệp khác vẫn còn nhập khẩu nhiều; tình trạng tổn thất sau thu hoạch vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn dẫn tới giá thành sản xuất lúa cao, nên đời sống người nông dân sản xuất lúa vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Để "giấc mơ" lãi 30% từ sản xuất lúa không còn quá xa, đoàn giám sát đã nêu nhiều kiến nghị. Trong đó có việc nghiên cứu thành lập quỹ bình ổn giá nông, thủy sản nói chung và giá lúa gạo nói riêng. Đồng thời thực hiện trợ giá khi thị trường có biến động xấu, hoặc hỗ trợ vốn tín dụng cho các doanh nghiệp thu mua dự trữ sản phẩm nông, thủy sản để tiêu thụ sản phẩm của nông dân, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do các rủi ro gây ra.
P.Thảo
Theo Dantri
Nâng cấp Cửa khẩu La Lay thành Cửa khẩu quốc tế Bên cạnh Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị vừa được Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho nâng cấp cửa khẩu La Lay lên thành Cửa khẩu quốc tế thứ hai tại tỉnh này. Nhiều năm qua, Cửa khẩu La Lay đã được đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là tuyến QL15D nối cửa...