Chuông bảo vật hé lộ lịch sử hơn 1.000 năm trước
Trên thân chiếc chuông đồng cổ nhất Việt Nam có nhắc đến nhiều địa danh và chức tước, là tư liệu quý hé lộ bức tranh lịch sử xã hội người Việt thời kỳ tiền độc lập tự chủ hơn nghìn năm trước.
Trong gian trưng bày tầng 1 của Bảo tàng Hà Nội, chuông Thanh Mai được đặt ở vị trí trang trọng, là hiện vật đầu tiên nhìn thấy khi bước vào phòng. Chuông đồng được nhân dân thôn My Dương, xã Thanh Mai ( Thanh Oai, Hà Nội) phát hiện trên cánh đồng năm 1986. Thấy hiện vật còn nguyên vẹn, khắc chữ cổ tinh xảo nên người dân báo chính quyền, đưa về Bảo tàng Hà Tây (cũ), sau đó chuyển về Bảo tàng Hà Nội. Cái tên Thanh Mai – nơi phát hiện được dùng để đặt tên cho cổ vật.
Chuông Thanh Mai được coi là đỉnh cao nghệ thuật đúc đồng thời bấy giờ. Ảnh: Hoàng Phương.
Năm 2006, chuông Thanh Mai được công nhận là chuông đồng cổ nhất Việt Nam do Giáo hội Phật giáo TP HCM và Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công bố, được công nhận bảo vật quốc gia tháng 1/2015. Cho đến nay, cổ vật độc bản này được xem là co niên đai sơm nhât đươc phat hiên ơ Viêt Nam (năm 798).
Chuông có hình dáng và minh văn độc đáo, không giống với bất cứ chuông nào trong hệ thống chuông chùa ở Việt Nam. Quai đúc nổi đôi rồng, đấu lưng vào nhau, uốn cong một cách khéo léo tạo thành núm treo chuông. Hình rồng không vảy, đầu to, không bờm, miệng ngậm tỳ xuống đỉnh chuông. Con rồng này có nét tương đồng với hình tượng rồng khắc trên bia đá cổ nhất Việt Nam là bia Trường Xuân (Thanh Hóa), năm 618.
Thân chuông Thanh Mai có bài minh văn bằng chữ Hán gồm 1530 chữ, khắc kín trong 8 ô. Mở đầu là dòng niên đại quả chuông, rồi đến tên 53 người góp tiền và họ tên những người đúc chuông. Bài minh văn cho biết chuông do hội Tuỳ Hỉ (một tổ chức của Phật giáo) gồm những người Hoa và người Việt đúc. Các đệ tử nhà Phật mong muốn tiếng chuông vang lên được trời, đất, thần, Phật chứng giám cho chúng sinh và tiêu trừ hết khổ nạn. Phật pháp được lưu danh muôn đời.
Các nhà nghiên cứu cũng xác định văn bản trên thân chuông được khắc cùng một thời điểm và khắc lần đầu, không có hiện tượng khắc lại hoặc khắc thêm xen kẽ về sau. Niên đại của văn bản khắc trên thân chuông và niên đại của chuông là một, hoàn toàn phù hợp với dòng lạc khoản tuyệt đối trên chuông là: ngày 20 tháng 3 năm Mậu Dần, niên hiệu Trinh Nguyên 14 (tức năm 798).
Ngoài giá trị độc bản, chuông Thanh Mai còn hé lộ bức tranh lịch sử hơn 1.000 năm trước khi nhắc đến nhiều địa danh và chức tước phổ biến thời kỳ tiền độc lập tự chủ. Bài minh văn có nhắc đến các địa danh hành chính như 4 huyện An Lạc, Văn Dương, Hán Hội, Nhật Nam; 18 châu: Tư Lăng, Nghi, Tấm, Trường, Văn, Vi, Tuy, Diêm, Quý, Kinh, Sóc, Thạch, Từ, Hạ, Ngạn, Ái, Tây Bình, Liễu; 12 phủ: Vạn Cát, An Lạc, Long Sơn, Âm Bình, Dung Sơn, Thượng Đức, Tứ Môn, Đại Bân, Ly Thạch, Cát Xương, Hạ Tập, Nghĩa Vương.
Ngoài ra nội dung minh văn còn nhắc đến nhiều các chức danh quan lại như: Huyện úy, Tả kim ngô vệ, Chiết xung đô úy, Phán quan, Thượng trụ quốc, Kinh lược tiên phong binh mã sứ, Thứ sử, Triều nghị lang, Du dịch sứ… Lần đầu tiên thấy xuất hiện đơn vị đo lường khối lượng của người Việt “90 cân Nam”. Một cân Nam = 0,4 kg hiện nay. Tức quả chuông nặng khoảng 36 kg. Điều này góp phần chứng minh cho việc chiếc chuông được đúc trên đất Việt và được lưu truyền, sử dụng trên đất Việt.
Video đang HOT
Phần phiên âm và bản dịch bài kệ khắc trên thân chuông, đại ý góp công đức đúc chuông này, các đệ tử nhà Phật mong muốn tiếng chuông vang lên được trời đất, thần, phật chứng giám cho chúng sinh, tiêu trừ khổ nạn. Ảnh chụp lại.
PGS.TS Đinh Khắc Thuân, chuyên gia viện Hán Nôm, người từng nghiên cứu về chiếc chuông này đánh giá, chuông Thanh Mai đẹp, có giá trị mỹ thuật và lịch sử cao. Đây là chiếc chuông đồng của người Việt, được phát hiện trong lòng đất ven sông Hồng thuộc huyện Thanh Oai, TP Hà Nội ngày nay, vốn là trung tâm dân cư người Việt sinh sống khi đó. Đây cũng là quả chuông đồng đầu tiên có văn tự được tìm thấy cho đến nay, niên đại từ thế kỷ 8, chứa đựng nhiều thông tin quan trọng cho biết hoạt động, ảnh hưởng của Phật giáo và sự giao lưu văn hóa, xã hội Việt Nam trước thời kỳ độc lập tự chủ. Sau này, chiếc chuông Nhật Tảo được phát hiện năm 1987 cũng coi như là cổ vật quý hiếm nhưng ít chữ hơn, được đúc muộn hơn so với chuông Thanh Mai khoảng hơn 100 năm.
Về giá trị lịch sử, PGS Thuân phân tích, bài minh văn khắc kín 4 mặt trên thân chuông là tài liệu sớm và chính xác, có độ tin cậy cao. Đa số tài liệu ra đời vào giai đoạn này qua thời gian bị mất mát, nếu còn thì thường chỉ là các bản sao chép có nhiều sai lệch. Bài minh văn còn nguyên vẹn, chưa hề có dấu hiệu sửa chữa và hoa văn trên thân chuông là tư liệu gốc quý giá. Các nhà nghiên cứu có thể khai thác được nhiều thông tin về lịch sử, xã hội, tộc người, mỹ thuật, phong tục tập quán và trình độ phát triển của Phật giáo cũng như các mối quan hệ xã hội thời kỳ đó qua tư liệu này.
Những tên người, chức tước, quê quán xuất hiện trong bài minh văn cho thấy sự giao lưu văn hóa giữa người phương Bắc với người phương Nam. Hội Tùy Hỷ là tổ chức xã hội của những người tôn sùng Phật giáo, lại có địa vị xã hội nhất định. Những chức danh như Huyện úy, Tả kim ngô vệ… là chức quan của người phương Bắc, khi đó đang sinh sống ở đây.
Việc công đức đúc chuông và nội dung bài kệ cũng cho thấy trình độ phát triển rực rỡ của Phật giáo thời kỳ này, ảnh hưởng đến một vùng rộng lớn trong đó có Việt Nam. “Trải qua hàng nghìn năm, chiếc chuông không bị hoen gỉ mà vẫn giữ nguyên được hình dáng, màu sắc ban đầu cho thấy kỹ thuật đúc đồng đỉnh cao của thời kỳ này. Song có sự giao thoa, ảnh hưởng văn hóa nên một số chi tiết trên thân chuông bị ảnh hưởng của phong cách Trung Hoa. Đặc biệt dáng chuông hình trụ, thẳng đứng là phong cách đậm chất Tùy Đường. Những chiếc chuông được đúc sau này thường có dáng thấp, miệng loe”, ông nói.
Hoàng Phương
Theo VNE
Chuyện ít biết về pho tượng thần Trấn Vũ
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi đã trả thù nhà Tây Sơn, các cụ già làng Ngọc Trì lo sợ tượng bị hủy hoại nên mang bộ khuôn đúc đi giấu và dựng lên chuyện tượng đồng đưa từ nơi khác đến thờ.
Huyền Thiên Trấn Vũ là vị thần có nguồn gốc từ tín ngưỡng và đạo giáo Trung Hoa. Thần được hợp bởi khí thiêng của trời đất nên có khả năng trừ tà ma. Nhưng khi du nhập vào Việt Nam, kết hợp với văn hóa bản địa, thần ngoài trừ yêu ma quỷ quái, còn trị thủy, bảo hộ cuộc sống an bình cho cư dân nông nghiệp.
Nhiều người thường nhắc đến tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thánh (Ba Đình, Hà Nội), ít ai biết được ở thôn Ngọc Trì, xã Thạch Bàn (Long Biên) còn có pho tượng đồng nặng 4 tấn được thờ trong đền Trấn Vũ. Tượng được công nhận là bảo vật quốc gia vào tháng 12/2015.
Pho tượng thần Trấn Vũ ở Thạch Bàn (Long Biên) nguyên khối bằng đồng, nặng 4 tấn có nhiều nét tương đồng tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thánh (Ba Đình). Ảnh: Hoàng Phương.
Trong đền, tượng bằng đồng được an vị ở giữa hậu cung, cao khoảng 3,9 m. Trên tay tượng cầm kiếm chống lên mai rùa, thân kiếm có rắn quấn quanh. Tương truyền, Quy (rùa) và Xà (rắn) là hai vị đại tướng và hóa thân của thần Trấn Vũ. Trong truyền thuyết, Trấn Vũ cũng là vị thần giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa.
Đền Trấn Vũ - nơi đặt tượng được dựng trên thế đất linh quy xà hội tụ, quay mặt về phương Bắc. Trên cánh đồng Ngọc Trì có gò đất hình con rùa nổi lên. Sau đền là đê sông Hồng, tượng trưng cho con cự xà (rắn lớn) quấn quanh. "Vì vậy, tượng Trấn Vũ và ngôi đền được cho là linh thiêng nhất vùng này, người dân thờ kính", ông Ngô Quang Khải, Trưởng ban Quản lý di tích đền Trấn Vũ cho hay.
Trên bia Trấn Vũ điện bia ký lưu giữ trong đền ghi rõ, ban đầu tượng thần được dựng bằng gỗ. Khi ấy, vua Lê Thánh Tông (1442-1497) đưa quân đi dẹp giặc Chiêm Thành đã dừng chân nghỉ tại xã Thạch Bàn (tên cũ là Cự Linh). Vua được thần báo mộng và phù trợ nên khi thắng lợi trở về đã ban sắc cho dân địa phương lập đền thờ đức thánh Trấn Vũ. Ngoài ra, vua còn ban tặng bài vị có 5 chữ Hiển linh Trấn Vũ quán và ban một số ruộng đất để phục vụ hương hỏa. Bài vị cổ xưa đó hiện nay vẫn còn trong hậu cung, được thờ cùng với pho tượng thần.
Đến năm 1747, tượng gỗ bị hư hại nên quan viên và nhân dân trong vùng góp công sức, tiền của đúc tượng bằng đồng. Nhưng khi chiêm bái thì vẫn chưa thấy xứng nên năm 1788 dưới thời Tây Sơn, tượng đồng được đúc lại lần nữa. Năm 1802, tượng hoàn thành và giữ nguyên hình dạng đến ngày nay.
Tay tượng thần Trấn Vũ cầm kiếm chống lên mai rùa, có rắn quấn quanh. Ảnh: Hoàng Phương.
Trải qua biến cố lịch sử, pho tượng đồng được nhân dân tìm mọi cách gìn giữ nên hầu như không đổi khác so với ban đầu.Các cụ già thôn Ngọc Trì kể lại, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi đã có những hành động trả thù nhà Tây Sơn. Tượng vừa đúc xong, các cụ mang bộ khuôn đúc đi giấu ngay và dựng lên điển tích tượng đồng được đưa từ nơi khác đến vì sợ bị hủy hoại.
Đến thời kỳ Pháp xâm lược, chúng nhiều lần định phá hủy tượng thần, hun nóng cho chảy ra đồng nhưng vấp phải sự kháng cự của nhân dân, quân lính cũng liên tục bị bệnh ốm chết, phải bỏ chạy. "Có lần địch càn, cán bộ cách mạng còn chui vào trong đền, nằm gọn dưới chân tượng thần Trấn Vũ. Địch vào sục sạo một hồi nhưng không phát hiện được, sau cũng không dám làm càn chốn uy nghiêm nên cán bộ thoát", ông Khải kể.
Những năm chống Mỹ, đền trở thành nơi cất giấu vũ khí của bộ đội phòng không, nơi hoạt động của cán bộ. Khi quân Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, kho xăng Đức Giang, cánh đồng Ngọc Trì đều bị rải bom, thậm chí có lần bom rơi trước cửa nhưng cả ngôi đền và pho tượng đều không bị hư hại.
"Ngôi đền lẫn pho tượng vài trăm năm rồi nhưng hầu như không bị hư hại, chỉ phải sơn lại hai lần. Năm 1916, tượng bị rỉ do đồng có lẫn nhiều tạp chất. Các cụ đã thuê thợ dùng sơn ta, pha thành sơn đen bảo vệ cho con cháu thờ phụng muôn đời. Năm 2014, sơn bị bong tróc nhiều nên chúng tôi làm đơn gửi Bộ Văn hóa xin được tu tạo màu sơn đen trước đó", ông Khải thông tin.
Đền Trấn Vũ - nơi đặt pho tượng đồng bảo vật quốc gia. Ảnh: Hoàng Phương.
Ngoài đền Trấn Vũ ở thôn Ngọc Trì, thần Trấn Vũ còn được người dân thờ phụng ở nhiều nơi như đền Quán Thánh (Ba Đình), chùa Huyền Thiên (Hoàn Kiếm), quán Thụy Lôi (Đông Anh). Trong đó, tượng thần ở đền Trấn Vũ có nhiều nét tương đồng với tượng ở đền Quán Thánh từ chất liệu, thần thái đến tay chống kiếm. Nhà nghiên cứu di sản văn hóa Trần Lâm Biền nhận định, từ cách thức tạo hình có thể thấy tượng Trấn Vũ ở hai ngôi đền ngoài trấn giữ phương Bắc, trừ tà còn thể hiện thêm chức năng trị thủy của cư dân nông nghiệp.
Xưa kia, Ngọc Trì là làng nông ven đê sông Hồng, nay dần chuyển sang buôn bán, đời sống nhân dân khấm khá. Trải qua thời gian, khát vọng tâm linh của người dân không còn đơn thuần ở cầu cho mùa màng tươi tốt mà chuyển dần sang cầu buôn bán thuận buồm xuôi gió. "Ước nguyện đó được hiện thực một phần nên tình cảm của người dân dành cho thần Trấn Vũ rất trân trọng", ông Khải nói và cho hay vào mùng 1, ngày rằm, đền lúc nào cũng nghi ngút khói hương của nhân dân trong vùng và khách thập phương về lễ bái. Vào ngày Tết, người dân đến còn đông hơn.
Vào ngày 3/3 âm lịch hàng năm, dân thôn Ngọc Trì tổ chức lễ hội, hay còn gọi là ngày Thánh Đản. Đây là lễ hội cầu mùa, mong no ấm. Trong lễ hội có trò kéo co ngồi, tượng trưng cho ước muốn phồn thực, sinh sôi và thể hiện sức mạnh trần gian trị thủy. Thần Trấn Vũ khi ấy trở thành niềm tin tinh thần giúp cộng đồng có mùa màng bội thu, phù trợ con người chống lại tai ương.
Hoàng Phương
Theo VNE
Pho tượng bảo vật quốc gia bị bẻ vật cầm tay Tưởng pho tượng làm bằng đá quý, người dân bẻ vật cầm tay trước khi bị tịch thu. Hai vật này sau đó bị xã giữ gần 40 năm và nhất quyết không bàn giao cho bảo tàng. Bảo tàng Chăm Đà Nẵng đang trưng bày pho tượng Bồ tát Tara ở vị trí trang trọng. Do là hiện vật độc bản, có...