Chữa kém ăn, mất ngủ với cây sản đắng
Theo Đông y, cây sản đắng có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng chỉ thống (tiêu sưng giảm đau), khai vị tiêu thực…
Cây sản đắng còn có tên khác là thanh ngâm, mật cá, thằm ngăm đất, cỏ mật đất còn, người Thái gọi là co kham đin. Tên khoa học là Picria terrae Lour, thuộc họ hoa mõm sói (Scrophulariaeae). Là loài cây thân cỏ, sống hằng năm cao khoảng 20cm.
Lá mọc đối, có khía răng, cuống dài, có rìa cánh. Hoa mọc thành chùm ở kẽ lá. Quả nang dẹt, nằm trong đài còn lại, trông giống con hến. Hạt hình trụ, màu vàng, hơi thắt ở giữa. Mùa hoa quả vào tháng 9 – 11. Cây mọc hoang dại ở những nơi ẩm mát, ở khắp các miền rừng núi nước ta.
Bộ phận dùng làm thuốc là toàn cây, có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất là mùa hạ; phơi hay sấy khô, bảo quản nơi khô mát để sử dụng dần. Theo Đông y, mật đất có vị đắng, tính mát; vào 4 kinh tâm, can, vị và đại tràng. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu thũng chỉ thống (tiêu sưng giảm đau), khai vị tiêu thực…
Một số bài thuốc theo kinh nghiệm dân gian:
Bài 1: Ăn uống khó tiêu, tăng cường tiêu hóa: Sản đắng sao cho thơm 100g, rượu trắng 1 lít, đường hay mật ong 300g. Cho sản đắng đất vào bình, đổ rượu, mật ong vào ngâm, mỗi ngày lắc 1 lần, ngâm trong 15 ngày trở lên. Mỗi ngày uống 1 chén con (khoảng 20ml) trước bữa ăn cơm.
Video đang HOT
Cây sản đắng
Bài 2: Chữa thiếu máu, người mệt mỏi, kém ăn (có thể dùng cho sản phụ sau sinh): Sản đắng 10g, sâm đại hành 10g, nghệ vàng 20g. Sản đắng rửa sạch cho 800ml nước đun nhỏ lửa còn 200ml; sâm đại hành và nghệ vàng thái nhỏ, sấy khô, tán bột, uống cùng với nước thuốc sắc. Ngày 1 lần, trước ăn 30 phút, dùng liên tục 10 ngày.
Bài 3: Chữa tiểu tiện sẻn đỏ do nóng: Sản đắng tươi, chừng 1 nắm (khoảng 20 – 30g), rửa sạch, đổ 700ml nước sắc còn 250ml, chia 2 lần nước uống trong ngày. Dùng liền 10 ngày.
Bài 4: Chữa đau bụng do lạnh: Sản đắng 30g, bỏ gốc, rửa sạch, cho vào ấm đổ 500ml nước, sôi, đun nhỏ lửa còn 150ml nước đặc, dùng liền 3 ngày.
Bài 5: Chữa kém ăn, mất ngủ: Sản đắng, bá tử nhân (trắc bách diệp), hạt táo chua (lấy nhân sao già), hoài sơn, hạt sen, mạch môn mỗi vị 10g. Tất cả cho vào ấm đổ 800ml nước, sắc còn 250ml nước, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng liền 10 ngày.
Theo Eva
Chăm sóc dinh dưỡng cho bệnh nhân sởi
Chăm sóc dinh dưỡng là vô cùng quan trọng trong dự phòng và hỗ trợ điều trị bệnh sởi để giúp cơ thể tăng sức đề kháng chống lại tác nhân gây bệnh, giảm nguy cơ mắc các biến chứng hay giảm nhẹ biến chứng khi đã mắc.
Viện Dinh dưỡng quốc gia cho biết bệnh sởi tiến triển nặng ở trẻ nhỏ có tình trạng dinh dưỡng kém, suy dinh dưỡng hoặc trẻ có hệ thống miễn dịch suy giảm nên bệnh nhân dễ bị biến chứng.
Bệnh sởi chính là tác nhân gây ảnh hưởng tới tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Trẻ bị sởi thường chán ăn, bỏ ăn hay từ chối không ăn do bị viêm loét ở miệng, do tình trạng nhiễm trùng; nôn và tiêu chảy không chỉ làm tăng nhu cầu một số chất dinh dưỡng mà còn tăng đào thải và giảm hấp thu chất dinh dưỡng.
Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo, chăm sóc dinh dưỡng là vô cùng quan trọng trong dự phòng và hỗ trợ điều trị bệnh sởi để giúp cơ thể tăng sức đề kháng chống lại tác nhân gây bệnh, giảm nguy cơ mắc các biến chứng hay giảm nhẹ biến chứng khi đã mắc. Trẻ suy dinh dưỡng thường dễ bị mắc sởi và bị biến chứng nặng.
Ngược lại trẻ bị mắc sởi lại dễ bị suy dinh dưỡng thậm chí suy dinh dưỡng nặng. Do đó nếu trong quá trình điều trị bệnh sởi, nếu trẻ bị suy dinh dưỡng nặng sẽ cần được áp dụng chế độ điều trị suy dinh dưỡng. Việc lựa chọn thực phẩm hợp lý và chế độ dinh dưỡng đúng cách sẽ mang lại lợi ích trong việc phòng và chữa bệnh sởi.
Chế độ ăn đảm bảo đủ 4 nhóm thực phẩm. Nhóm cung cấp chất bột đường, chất đạm, chất béo, giàu vitamin - khoáng chất thiết yếu. Ăn đa dạng thực phẩm : 15-20 loại thực phẩm mỗi ngày. Không quá kiêng khem để bù lại các chất dinh dưỡng mất đi (đặc biệt là năng lượng và protein) do quá trình nhiễm trùng và tiến triển bệnh.
Cần cho trẻ ăn đủ các thức ăn giàu đạm. Đặc biệt các thực phẩm giàu đạm có giá trị sinh học cao như thịt, cá, trứng, sữa, hải sản đồng thời cũng là nguồn cung cấp kẽm và sắt giúp tăng cường hệ miễn dịch và sức đề kháng cho trẻ. Trong trường hợp trẻ bị biến chứng tiêu chảy hoặc viêm phổi, cần bổ sung kẽm theo hướng dẫn của y tế bằng đường uống cho trẻ.
Cần cho trẻ ăn tăng rau, quả có màu vàng, đỏ (như cà rốt, cà chua, bí đỏ, cam, xoài, đu đủ, dưa hấu...) và các loại rau có lá xanh sẫm (như rau muống, rau ngót, rau dền đỏ, cải bó xôi, xúp lơ xanh...) vì có nhiều vitamin và khoáng chất, đặc biệt là vitamin A, vitamin C ... giúp tăng cường miễn dịch, chống nhiễm trùng và làm nhanh lành các tổn thương, đặc biệt tổn thương ở mắt, chống mù lòa. Các loại quả khác giàu vitamin C giúp nâng cao sức đề kháng và cung cấp nước cho trẻ như bưởi, táo, lê... cũng rất tốt. Bên cạnh đó trẻ cần được uống bổ sung vitamin A theo phác đồ điều trị.
Đối với trẻ còn trong độ tuổi bú mẹ: bà mẹ cần tiếp tục cho con bú, cho bú nhiều lần hơn kết hợp với ăn bổ sung hợp lý.
Khi đang bị bệnh sởi không nên dùng các loại gia vị cay nóng như ớt, hạt tiêu, quế, hành tây, tỏi, cà ri...., hạn chế các thức ăn chứa nhiều chất béo no, nội tạng động vật. Tuyệt đối tránh, không dùng các thức ăn mà đã bị dị ứng hoặc các thức ăn lạ
Phải cho trẻ uống đủ nước, nhất là trong giai đoạn trẻ đang sốt, nôn. Có thể cho trẻ uống nước quả như nước cam, nước bưởi, nước chanh và các loại nước quả, sinh tố khác. Khi trẻ sốt cao, nôn và tiêu chảy cần cho trẻ uống dung dịch ORESOL để bù nước và điện giải theo hướng dẫn.
Sau khi trẻ đã khỏi bệnh, cần cho trẻ ăn nhiều hơn trong giai đoạn hồi phục ít nhất là 2 tuần để trẻ có thể nhanh chóng trở về tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe bình thường.
Nên bổ sung đa vitamin- khoáng chất mà trong thành phần có vitamin A, E, C, kẽm, selen..., trong đo quan trong hơn ca la vitamin A, C va kem giúp cho nâng cao miễn dịch.
Theo VNE
Độ tuổi mà não bắt đầu suy yếu Ngày càng có nhiều người trẻ tuổi than phiền về chứng hay quên và trì trệ trong khả năng tiếp thu. Đó là do tình trạng não bắt đầu suy yếu. Một nghiên cứu mới của các nhà nghiên cứu tại Đại học Simon Fraser ở Canada cho thấy rằng sự suy giảm của các tế bào thần kinh liên quan đến vấn...