Cho loài “lộc trời” ngoe nguẩy “đẻ” nhân tạo, dân có cơ hội đổi đời
Được coi là “lộc trời” vì con rươi là đối tượng có giá trị lớn, song lại chỉ có thể khai thác tự nhiên, phụ thuộc hoàn toàn vào thời tiết.
Tuy nhiên, việc nuôi rươi phần nào đã chủ động được nhờ thành công trong sản xuất giống nhân tạo, mở ra cơ hội phát triển mô hình kinh tế nông nghiệp mang lại hiệu quả cao.
Sinh sản hữu tính
Rươi có tên khoa học Tylorrhynchus heterochaetus, là động vật không xương sống, thuộc lớp giun nhiều tơ, nhiều nơi còn gọi là rồng đất. Có nhiều quan điểm về sự phân bố của rươi, nhưng số đông giới khoa học cho rằng chúng thường tập trung ở vùng nước lợ của các cửa sông ven biển Việt Nam.
Rươi là loại thực phẩm giàu dinh dưỡng, bán với giá cao và chỉ xuất hiện theo mùa.
Ở Việt Nam, rươi có nhiều ở một số tỉnh địa phương đồng bằng vùng trũng, có diện tích đất ngập úng, có con nước thủy triều lên xuống của các con sông, con lạch nhỏ, nước lợ như một số tỉnh Đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ; đặc biệt là vùng Kinh Môn, Tứ Kỳ thuộc tỉnh Hải Dương, rươi xuất hiện khá dày đặc khi vào mùa.
Theo một công trình nghiên cứu về rươi của tác giả Nguyễn Quang Chương (Trung tâm Quan trắc, Viện Nghiên cứu NTTS I), mùa sinh sản chính của rươi là tháng 5 – 6 (rươi chiêm) và tháng 10 – 11 (rươi mùa). Từ tháng 1 – 6, do thủy triều lên về đêm nên rươi di cư sinh sản ban đêm. Khi di cư chúng không nổi lên mặt nước mà đi chìm cách đáy 20 – 30 cm.
Ngoài ra, rươi còn sinh sản rải rác vào các tháng trong năm. Sự di cư của rươi chịu tác động của độ đục và độ mặn trong thủy triều. Bằng chứng là trong hai tháng 11 và 12, khi độ mặn trong nước cao nhất thì cũng là lúc rươi đi sinh sản với số lượng nhiều nhất, vì vậy sản lượng khai thác rươi trong hai tháng này rất lớn.
Hình thức sinh sản chính là điểm độc đáo của rươi. Nhiều người nghĩ rươi cũng như những loài trong họ nhà giun sinh sản vô tính bằng cách đứt đoạn để nhân ra các cá thể mới, nhưng kỳ thực ở rươi có sự tiếp nối của hai phương thức vô tính và hữu tính.
Video đang HOT
Thành công nhân giống nhân tạo
Một thực tế đáng buồn hiện nay là nguồn lợi rươi đang bị khai thác triệt để vào chính mùa sinh sản của chúng. Sản phẩm rươi sử dụng làm thực phẩm là những cá thể mang trứng, vì thế khi thị trường càng ưa chuộng rươi thì càng đẩy loài động vật nhiều chân này vào chỗ tuyệt chủng nếu chỉ phụ thuộc vào khai thác tự nhiên.
Bên cạnh đó, nhiều năm qua do việc ngăn sông, giữ đập, nhất là việc dùng thuốc trừ sâu quá nhiều trong sản xuất nông nghiệp đã ảnh hưởng không nhỏ đến sinh sản và phát triển của rươi. Mong mỏi lớn nhất của bà con nông dân là làm thế nào để có được nguồn giống chủ động phục vụ cho nuôi rươi thương phẩm nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả.
Để giải quyết vấn đề về giống rươi, Trung tâm Quốc gia Giống hải sản miền Bắc (Viện Nghiên cứu NTTS I) đã triển khai nghiên cứu, sản xuất giống rươi trong điều kiện nhân tạo, xây dựng các mô hình nghiên cứu, hoàn thiện quy trình sản xuất, canh tác rươi – lúa, chủ động cung cấp giống rươi cho người dân tại một số địa phương, chủ động cung cấp bổ sung thức ăn cho rươi, tăng cường quản lý các vấn đề môi trường nuôi.
Năm 2018, Trung tâm Khuyến nông Quảng Ninh triển khai mô hình “Canh tác rươi – lúa hữu có bổ sung rươi giống tại TP Uông Bí và thị xã Đông Triều” với quy mô 8 ha cho 4 hộ nuôi. Các hộ nuôi được hỗ trợ con giống, hướng dẫn kỹ thuật nuôi, kỹ thuật xử lý bổ sung thức ăn…
Sau hơn 5 tháng triển khai, rươi phát triển tốt, cỡ đạt 5 – 7 cm/con; mật độ nuôi đạt 80 – 100 con/m2, cao hơn so mật độ ngoài mô hình (10 – 30 con/m2); các chỉ tiêu về lúa hữu cơ hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu mục tiêu của mô hình.
Một trong những hộ triển khai mô hình thử nghiệm canh tác rươi – lúa tại phường Phương Nam, TP Uông Bí cho biết, mô hình thả bổ sung rươi giống sản xuất nhân tạo ước tính cho năng suất cao gấp 3 – 4 lần so việc nuôi lấy giống ngoài tự nhiên, do vậy hiệu quả mang lại cũng rất cao.
Lợi đủ đường từ nhân giống “lộc trời”
Ông Cao Văn Hạnh, Trung tâm Quốc gia Giống hải sản miền Bắc – chủ nhiệm đề tài nghiên cứu sinh sản nhân tạo giống rươi cho biết, ngoài được biết đến như là một món ăn đặc sản, bổ dưỡng rươi còn được sử dụng như một thứ thức ăn đặc biệt trong NTTS, nhất là để nuôi vỗ tôm sú bố mẹ và TTCT.
Các cơ sở sản xuất giống hiện nay đều sử dụng rươi vì sau khi sử dụng tỷ lệ thành thục cao, chất lượng trứng tốt. Rươi đặc biệt hợp với nuôi vỗ phát dục vì trong nó chứa một số axit béo không no chỉ có ở loài giun nhiều tơ mà thức ăn tổng hợp không hề có.
Chính nhờ khả năng tự làm sạch thủy vực nên rươi còn được một số nhà khoa học xem như là các sinh vật chỉ thị mức ô nhiễm môi trường bằng cách xác định mật độ quần thể, sản lượng và tần suất xuất hiện tại một vùng ven biển.
Việc chủ động được rươi giống được ví như là một mũi tên bắn trúng bốn đích. Thứ nhất là giúp người dân chủ động việc nuôi thương phẩm thay vì vẫn phải dựa vào nguồn giống tự nhiên như hiện nay. Thứ hai là sản phẩm nuôi sẽ được kiểm soát chặt chẽ các điều kiện vệ sinh ATTP (do các vấn đề đầu vào như cải tạo ao nuôi, gây thức ăn, chế độ quản lý và chăm sóc… đều được kiểm soát).
Thứ ba là mặt hàng rươi trên thị trường không còn quá phụ thuộc vào tự nhiên (mùa vụ thường ngắn, chỉ 1 – 2 tháng/năm) do đó sẽ có một nguồn nguyên liệu cung cấp thường xuyên đến người tiêu dùng, rươi sẽ được dùng phổ biến hơn, đồng thời giá bán sẽ hạ. Cuối cùng là nếu cung cấp được nguồn rươi thường xuyên sẽ giúp cho việc nuôi tôm bố mẹ được tốt hơn, gián tiếp thúc đẩy nghề sản xuất tôm sú, TTCT phát triển…
Theo Phương Ngọc (Tạp chí Thuỷ sản)
Mắc mùng nuôi loài côn trùng đen sì đẻ khỏe, thu "trứng vàng"
Chỉ cần tận dụng phụ phẩm rau, củ, quả, xác động vật...; những thứ vứt bỏ của các phế phẩm nông nghiệp là nuôi được loài côn trùng đẻ ra trứng đem về lợi nhuận tốt. Đó là ưu thế khi nuôi ruồi lính đen của gia đình ông Huỳnh Việt Triều ở ấp Vĩnh Thành, xã Vĩnh Biên (TX. Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng).
Các loài ruồi sống trong nhà đậu bám trên thức ăn, truyền một số bệnh trên người, nhưng với ruồi "lính đen" thì không như vậy.
So với "ruồi nhà", ruồi "lính đen" có kích thước lớn hơn gấp đôi, gấp ba lần so với ruồi thường. Chúng giống như những con ong ruồi nhỏ, điều đặc biệt là trứng của loài ruồi này có giá trị dinh dưỡng cao, dùng để làm thức ăn cho các loài gia cầm, thủy sản, hải sản...
Ông Huỳnh Việt Triều ở xã Vĩnh Biên (TX. Ngã Năm) bên mùng nuôi ruồi lính đen sinh sản.
Nhận thấy tiềm năng của con ruồi "lính đen" về giá trị kinh tế lại dễ chăm sóc, loài côn trùng này cũng góp phần tốt vào việc bảo vệ môi trường nên ông Huỳnh Việt Triều ở ấp Vĩnh Thành, xã Vĩnh Biên (TX. Ngã Năm) đã phát triển mô hình nuôi ruồi "lính đen" tại gia đình.
Trước khi nuôi ruồi "lính đen", ông Triều đã nuôi con trùn quế, tiếp đến trồng cây nha đam và tận dụng nguồn nguyên liệu cây nha đam có sẵn làm nước ép cung cấp ra thị trường. Cùng thời điểm trên, nhà ông cũng nuôi gà, vịt nhưng thấy chi phí cao và ông nghiên cứu trên internet thấy trứng ruồi "lính đen" dùng cho các loài gia cầm ăn sẽ lớn rất nhanh nên ông quyết định nuôi ruồi "lính đen".
Ông Triều chia sẻ: "Để phát triển mô hình nuôi ruồi "lính đen", tôi tận dụng khu vực nuôi trùn quế trước đây để nuôi ruồi. Tôi mua 20kg trứng ruồi lính đen về, sau ấp trứng thu về số lượng bố mẹ tầm 40kg và vòng đời phát triển của ruồi khoảng 30 - 40 ngày. Thời gian ấp trứng ruồi giai đoạn ấu trùng được xem là thời kỳ đóng góp tốt nhất cho việc xử lý rác thải vì chúng có thể "tiêu thụ" hàng tấn phế phẩm nông nghiệp để phát triển.
Theo ông Triều, một tấn rau, củ, quả các loại, ruồi "xử lý" trong vòng 2 ngày cho ra 150kg nhộng ruồi và ấu trùng ăn liên tục ngày đêm không ngưng nghỉ. Càng ăn chúng càng lớn nhanh. Tầm 12 ngày - 15 ngày, nhộng chuyển sang giai đoạn làm kén và trở thành ruồi trưởng thành.
Vòng đời của ruồi lính đen trưởng thành 7 ngày và chúng sinh sản liên tục trong 2 ngày. Bưng thau chứa đầy nhộng ruồi "lính đen" đưa khách xem, ông Triều tiếp lời: "Nuôi ruồi "lính đen" không có rủi ro, bởi chúng phát triển mạnh ở nhiệt độ từ 28oC đến 30oC nên trong chuồng nuôi cần giữ cho nhiệt độ thích hợp giúp ruồi sinh sôi nảy nở tốt".
Riêng nhộng ruồi lính đen được phân làm 2 loại, nhộng bán giống có giá 150.000 đồng/kg, nhộng thương phẩm 30.000 đồng - 50.000 đồng/kg, số lượng trứng và nhộng ruồi "lính đen" được ông Triều đưa đi tiêu thụ trong và ngoài tỉnh Sóc Trăng.
Ông Triều cho biết thêm: "Diện tích nuôi ruồi "lính đen" bố mẹ không cần lớn, chỉ cần 6m2 là nuôi số lượng ruồi 10kg. Cái hay của nuôi ruồi "lính đen" không tốn nhiều chi phí đầu tư ban đầu cũng như diện tích nuôi, chỉ cần bỏ số tiền 1,5 triệu đồng đầu tư sẽ cho lợi nhuận cao. Nếu ai có nuôi chim yến, ruồi "lính đen" được xem là đối tượng dẫn dụ chim yến rất hay, vì chim yến rất thích ăn ruồi "lính đen" trưởng thành. Cái hay nữa của ruồi "lính đen" trong quá trình nuôi, tôi nhận thấy và rất yên tâm bởi ruồi không thể thành dịch vì sinh sản xong ruồi chết liền...".
Theo ông Triều, ruồi sống trong môi trường cực dơ, người nuôi không cần vệ sinh chuồng trại, chỉ cần giữ độ ẩm chuồng nuôi tốt là đảm bảo đàn ruồi sinh sôi cực nhanh. Hướng tới, ông Triều tiếp tục nghiên cứu tăng số lượng đàn ruồi và cải tạo hệ thống chuồng trại, học hỏi thêm kinh nghiệm sản xuất bằng việc ứng dụng công nghệ cao để cho ra sản phẩm nhộng ruồi "lính đen" chất lượng tốt hơn nữa phục vụ chăn nuôi, góp phần nâng cao thu nhập..
Trưởng Phòng Kinh tế TX. Ngã Năm Hồng Minh Nhật cho biết: "Con ruồi "lính đen" được nuôi tại hộ ông Triều được xem là đối tượng nuôi mới trên địa bàn thị xã, dù mô hình mới đi vào hoạt động chưa lâu nhưng đem về nguồn kinh tế tốt. Đồng thời, mô hình nuôi ruồi "lính đen" cho thấy hiệu quả về tận dụng phế phẩm nông nghiệp nhằm nâng cao sản xuất trong chăn nuôi và bảo vệ môi trường. Tới đây, đơn vị sẽ nghiên cứu để có những giải pháp nhân rộng mô hình, góp phần xử lý tốt nguồn rác thải trong sinh hoạt...".
Theo Thúy Liễu (Báo Sóc Trăng)
Mảnh đất "kỳ nhân", vào làng gặp chuyện lạ, nuôi rồng đất ở ruộng Mảnh đất ấy nằm lọt thỏm trong lòng sông Lam. Bên này là Nghệ An, bên kia là Hà Tĩnh. Vào mùa lũ lụt, đứng trên bờ đê sông Lam ngóng ra mảnh đất ấy chỉ thấy nước trắng xóa, mênh mông; làng mạc như đang phập phồng theo những lũy tre bao quanh. Mảnh đất có tên là Hưng Nhân (huyện Hưng...