Chờ đợi chính sách cho điện gió ngoài khơi
Việt Nam đã cam kết giảm phát thải carbon về 0 (Net-zero) vào năm 2050, cùng đó, trong dự thảo Quy hoạch Điện VIII, mục tiêu đặt ra đến năm 2030, sẽ phát triển khoảng 7 GW điện gió ngoài khơi.
Thời gian là không còn nhiều nhưng đến nay, việc phát triển điện gió ngoài khơi dường như vẫn “dậm chân tại chỗ” khi nhiều cơ chế chính sách chưa hoàn thiện và đồng bộ.
Bạc Liêu hiện có nhiều dự án điện gió ngoài khơi đang được thi công. Ảnh: Chanh Đa/TTXVN
Với đường bờ biển trải dài, Việt Nam đã được nhiều tổ chức trong và ngoài nước đánh giá có tiềm năng phát triển năng lượng gió vô cùng lớn. Theo ông Phạm Nguyên Hùng, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương, tiềm năng điện gió ngoài khơi của Việt Nam ước tính khoảng 500 GW về mặt kỹ thuật, là nguồn điện rất lớn so với khu vực và thế giới. Bên cạnh đó, những tiến bộ về công nghệ tua-bin gió, khả năng lưu trữ trong thời gian qua cũng đã tăng cường tính ổn định và khả thi của điện gió ngoài khơi.
Điện gió ngoài khơi hoàn toàn có tiềm năng để trở thành một trong những nguồn cung chủ đạo của hệ thống năng lượng Việt Nam trong tương lai, qua đó giảm sự lệ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu. Tuy vậy, đây vẫn là lĩnh vực rất mới mẻ với ngành công nghiệp trong nước.
Theo TS. Nguyễn Mạnh Cường, Viện Năng lượng – Bộ Công Thương, tới năm 2030 quy mô điện gió ngoài khơi có thể lớn hơn 7.000 MW khi các điều kiện về kinh tế – kỹ thuật cho phép (đặc biệt là giá điện và hạ tầng đấu nối); tới năm 2045 quy mô toàn quốc có thể lên tới 64.500 MW.
Dù thế, để đưa điện gió ngoài khơi vào thực tế, Việt Nam vẫn chưa có Quy hoạch hệ thống tuyến cáp ngầm dưới biển kết nối các dự án để giảm thiểu tác động đến hệ sinh thái, giao thông vận tải biển và sinh kế ngư dân; vấn đề phân chia ranh giới đầu tư lưới điện đấu nối giữa nhà đầu tư điện gió ngoài khơi với đơn vị quản lý vận hành và đầu tư hệ thống truyền tải (EVN).
Ngoài ra, Việt Nam chưa xác định được rõ nét dự án điện gió ngoài khơi nào sẽ được cấp chủ trương đầu tư, dẫn tới sự bị động trong đầu tư nâng cấp lưới điện đồng bộ với dự án. Các quy trình, thủ tục đầu tư còn phức tạp, sự chồng chéo về quản lý giữa các bộ, ngành địa phương đối với vùng biển, dẫn tới thời gian chuẩn bị đầu tư kéo dài và tiềm ẩn rủi ro trong quá trình thực hiện.
Chia sẻ vấn đề này, ông Stuart Livesey, Tổng Giám đốc Dự án điện gió ngoài khơi La Gàn, Giám đốc quốc gia của Copenhagen Offshore Partners (COP) tại Việt Nam cho rằng, việc thiếu rõ ràng trong các chính sách và những rủi ro khác sẽ dẫn đến gia tăng chi phí, nguyên nhân là do các nhà đầu tư phải dự phòng một khoản ngân sách lớn cho các rủi ro trong trường hợp các dự án bị đình trệ hoặc huỷ bỏ.
Những rủi ro trên thường xảy ra ở các thị trường mới. Bên cạnh đó, tại Việt Nam hiện nay, vẫn chưa có được bản Quy hoạch Điện VIII hoàn thiện, kèm theo đó là giấy phép khảo sát không gian biển, Quy hoạch không gian biển, quy trình lựa chọn nhà đầu tư minh bạch,…
Video đang HOT
“Chúng tôi nhìn nhận Quy hoạch không gian biển là một công cụ rất hữu ích giúp định hướng phát triển ngành điện gió ngoài khơi trong việc kết hợp hài hòa với các hoạt động khác trên môi trường biển, như: dầu khí, quốc phòng và an ninh quốc gia, du lịch và giải trí, đánh bắt và nuôi trồng hải sản, khai thác tổng hợp,… Tuy nhiên, kinh nghiệm toàn cầu cho thấy cần rất nhiều thời gian để xây dựng, thực hiện nhiều cuộc tham vấn giữa các khối nhà nước và tư nhân cùng với các cơ quan ban, ngành của Chính phủ để định hình được một quy hoạch này hoàn thiện ban đầu. Do đó, chiến lược và kế hoạch phát triển ngành điện gió ngoài khơi không nên bị trì hoãn bởi quá trình xây dựng Quy hoạch không gian biển này. Việc tham gia đối thoại để xem xét hài hòa lợi ích cho các bên cùng sử dụng khu vực biển và xác định những hoạt động nào có thể cùng thực hiện với nhau là rất quan trọng”, ông Stuart Livesey chia sẻ.
Trong tương lai gần, với việc ngành điện Việt Nam ngày càng gặp nhiều thách thức trong việc đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch năng lượng… thì xu hướng phát triển năng lượng tái tạo trên thế giới; trong đó có điện gió ngoài khơi là giải pháp đột phá.
Ông Hoàng Trọng Hiếu – Phó Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo Quốc gia về Phát triển Điện lực nhận định, mặc dù có những bước phát triển mạnh mẽ, các loại nguồn điện gió, mặt trời gặp phải những khó khăn, thách thức lớn, như: Quy hoạch chưa quản lý hiệu quả, không đồng bộ; thời gian cấp phép đầu tư kéo dài. Đặc biệt, đến nay chưa có quy hoạch không gian biển cho điện gió ngoài khơi; về công nghệ, Việt Nam vẫn phải phụ thuộc nhiều vào nước ngoài.
Chia sẻ từ các doanh nghiệp cho thấy, để phát triển một trang trại điện gió ngoài khơi, có thể kéo dài từ 5 – 11 năm, bao gồm các bước: khảo sát, cấp phép, phát triển dự án, chuẩn bị thi công, thi công, chạy thử… Trong khi đó, thời gian đạt mục tiêu 7 GW chỉ còn 8 năm (đến 2030). Do đó, Việt Nam cần sớm có một khung pháp lý phù hợp, bao gồm tầm nhìn chiến lược, bàn giao không gian biển, kết nối lưới, ưu đãi thuế, khuyến khích phát triển chuỗi cung ứng. Đặc biệt, cần các giải pháp về kết nối lưới…
Ông Nguyễn Xuân Huy – Cố vấn cấp cao, Trưởng nhóm R&D điện gió ngoài khơi – Công ty cổ phần Xây dựng công trình IPC cho biết, năm 2030 phải đạt 7 GW điện gió ngoài khơi. Các rủi ro được đưa ra là vấn đề địa chính trị, sự chồng lấn của lô dầu khí và lô điện gió ngoài khơi, vấn đề pháp lý trong giao quyền sử dụng không gian biển, chưa rõ phân biệt điện gió gần bờ và ngoài khơi… Bên cạnh đó, các rủi ro kỹ thuật bao gồm cấu tạo địa chất, địa mạo, tác động môi trường, rủi ro của sóng và tốc độ gió, bão. Các rủi ro kinh tế gồm hợp đồng mua bán điện, giá điện, giá sắt thép, tua bin, lãi suất ngân hàng, lạm phát, đường truyền tải xây dựng không kịp hoặc nghẽn. Tất cả các yếu tố rủi ro này cần được tính toán, sớm có giải pháp.
Khuyến nghị cho vấn đề này, TS Dư Văn Toán, Viện Nghiên cứu biển và hải đảo cho rằng, để thực hiện mục tiêu phát triển điện gió ngoài khơi, cần sớm có các chính sách hỗ trợ, làm bệ phóng cho sự phát triển. Có thể kể đến như: Chính phủ, các bộ, ngành sớm xây dựng Chiến lược quốc gia phát triển điện gió ngoài khơi; cùng đó là sớm có quy hoạch không gian biển cho phát triển điện gió ngoài khơi Việt Nam đi kèm với Chiến lược quốc gia về phát triển năng lượng gió biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Ngoài ra, để đón đầu các dự án, các bộ, ngành cần xây dựng, bổ sung, hoàn thiện được khung thể chế chính sách quốc gia về cấp phép, thẩm định, đánh giá tác động môi trường, giao thuê biển, phát triển các dự án điện gió ngoài khơi và các năng lượng biển khác…; có Chương trình nghiên cứu khoa học về điện gió ngoài khơi, từ đó đào tạo nhân lực và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực này, TS Dư Văn Toán cho hay.
“Về phía doanh nghiệp, chúng tôi mong chờ các chính sách và quy định, quy trình rõ ràng để các dự án có thể phát triển đúng tiến độ đề ra với chất lượng cao. Đặc biệt là sự minh bạch ngay từ đầu đối với kỳ vọng về dự án. Do đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành trong việc đưa ra các chính sách phù hợp, tránh chồng chéo, gây ra những khó khăn cho doanh nghiệp”, ông Stuart Livesey nêu quan điểm.
Phát triển điện gió ngoài khơi: Cần chuẩn bị một lộ trình phù hợp
Các chuyên gia nhận định, điện gió ngoài khơi có mức độ phức tạp cao, thời gian xây dựng và phát triển lâu hơn với chi phí đầu tư cũng lớn hơn, đo đó cần chuẩn bị lộ trình phát triển phù hợp.
Bạc Liêu có nhiều dự án điện gió ngoài khơi. Ảnh: Chanh Đa/TTXVN
Điện gió ngoài khơi được đánh giá là một giải pháp năng lượng lâu dài và bền vững cho Việt Nam nhờ tiềm năng to lớn và nguồn tài nguyên phong phú. Nhiều chuyên gia cũng nhìn nhận, đây là một lựa chọn khả thi và đáng tin cậy mà Việt Nam cần để sản xuất ra năng lượng tái tạo. Cùng với việc phát triển các giải pháp tiên tiến khác như lưu trữ năng lượng khi đi vào vận hành thương mại, Việt Nam sẽ càng có vị thế để tiến xa hơn trong quá trình chuyển đổi xanh nhằm đáp ứng các mục tiêu Net Zero đã cam kết tại COP26.
Tuy nhiên, những vướng mắc của loại hình năng lượng này là gì, liệu có gặp "vấn đề" trong đấu nối hệ thống điện? Các chuyên gia nhận định, điện gió ngoài khơi có mức độ phức tạp cao, thời gian xây dựng và phát triển lâu hơn với chi phí đầu tư cũng lớn hơn, đo đó, cần chuẩn bị lộ trình phát triển phù hợp. Để làm rõ hơn vấn đề này, phóng viên TTXVN đã có buổi trao đổi với ông Stuart Livesey, Giám đốc quốc gia COP tại Việt Nam, Tổng Giám đốc Dự án điện gió La Gàn.
Ông đánh giá thế nào về tiềm năng điện gió của Việt Nam, thưa ông?
Việt Nam may mắn sở hữu điều kiện tự nhiên tuyệt vời để phát triển điện gió ngoài khơi. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới và nhiều báo cáo khác, khu vực phía Nam của Việt Nam là nơi có tiềm năng lớn về điện gió ngoài khơi, đặc biệt là tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận với chất lượng gió tốt nhất. Nơi đây có vận tốc gió lớn hơn các khu vực khác và do đó tạo ra nguồn điện lớn hơn, đồng thời có thể cung cấp giá điện sạch tốt hơn cho người tiêu dùng nhờ nguồn gió ổn định.
Do đó, chúng tôi quyết định tập trung nguồn lực đầu tư vào khu vực ngoài khơi của tỉnh Bình Thuận thông qua dự án điện gió ngoài khơi La Gàn với công suất dự kiến 3,5GW và có thể hướng đến các dự án khác tại Việt Nam trong tương lai. Để tối ưu hóa các nguồn tài nguyên gió của Việt Nam và giảm bớt chi phí cho những dự án đầu tiên tại thị trường mới này, nhà nước phải đánh giá một cách cẩn thận và lựa chọn các khu vực có tốc độ gió tối ưu để phát triển các dự án điện gió ngoài khơi đầu tiên có thể tạo ra nguồn điện năng tốt nhất với chi phí cạnh tranh.
Vì điện gió ngoài khơi không giống với các nguồn năng lượng tái tạo khác, có mức độ phức tạp cao, thời gian xây dựng và phát triển lâu hơn với chi phí đầu tư cũng lớn hơn; do đó, chúng ta cần đặc biệt quan tâm để chuẩn bị một lộ trình phù hợp cho sự phát triển của ngành đặc thù này khi Việt Nam vẫn là một thị trường còn rất mới.
Theo ông, vướng mắc lớn nhất ngăn trở việc phát triển điện gió ngoài khơi ở Việt Nam hiện nay là gì?
Hiện nay, việc thiếu các quy định và chính sách rõ ràng cùng với sự do dự trong việc làm thế nào để triển khai một dự án điện gió ngoài khơi cũng là những trở ngại lớn cho sự phát triển của ngành điện gió ngoài khơi tại Việt Nam. Chúng tôi khuyến khích và mong chờ Chính phủ nhanh chóng xây dựng một khuôn khổ pháp lý rõ ràng, minh bạch và một môi trường đầu tư thuận lợi hơn để lựa chọn và thu hút các nhà phát triển quốc tế giàu kinh nghiệm đến đầu tư và định hình thị trường ở giai đoạn đầu do đây là giai đoạn thường có nhiều rủi ro cao. Việc tạo nền tảng ổn định cho ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi mới là điều quan trọng để đảm bảo thành công.
Thêm vào đó, thị trường điện gió ngoài khơi ở Việt Nam vẫn phải đối mặt với những thách thức về cơ sở hạ tầng, đòi hỏi phải nâng cấp hệ thống hiện có, ví dụ như công suất kết nối lưới điện và khả năng truyền tải sản lượng điện năng lớn trên khắp cả nước.
Chính phủ có thể xem xét đến việc tiếp cận mang tính hợp tác hơn bằng cách tham gia ngay từ giai đoạn sơ khởi và cho thấy sự đảm bảo hơn trong việc ban hành cơ chế, chính sách, lộ trình nâng cấp, các thỏa thuận thương mại để đảm bảo khung thời gian đã định ra, chia sẻ rủi ro và làm việc với các nhà phát triển có kinh nghiệm để hoàn thiện các lỗ hổng về pháp lý cũng như định hướng thị trường.
Các công ty trong nước, các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan chính phủ có liên quan đều sẽ nhận thấy lợi ích to lớn khi tham gia phát triển ngành công nghiệp mới này. Ngoài ra, trong một số trường hợp, các nhà phát triển có thể giúp đầu tư vào cơ sở hạ tầng cần thiết như lưới điện hoặc cảng để giúp đất nước phát triển, đồng thời điều này sẽ giúp nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro trong quá trình phát triển dự án.
Câu chuyện đấu nối vào hệ thống điện, giảm công suất phát đang là trở ngại của nhiều dự án năng lượng tái tạo, và điện gió ngoài khơi cũng không ngoại lệ. Vậy với kinh nghiệm của mình, ông có đề xuất giải pháp gì cho vấn đề này?
Việc giảm công suất phát là một trong những mối lo ngại chính đối với các dự án năng lượng ở nhiều quy mô khác nhau trên toàn cầu. Khi nói đến một dự án điện gió ngoài khơi công suất lớn (với quy mô 3.5 GW khi hoạt động hết công suất - đủ cho hơn 7 triệu hộ dân Việt Nam sử dụng mỗi năm), lấy sự giảm công suất 10% như một ví dụ, giống như việc tắt nguồn bảy dự án năng lượng mặt trời 50 MW và các nguồn doanh thu liên quan.
Đây không chỉ là sự tổn thất đáng kể cho các nhà đầu tư phát triển mà còn là sự hao phí lớn khi tạo ra năng lượng nhưng không thể hòa vào mạng lưới điện quốc gia. Ngoài ra, khi một nhà phát triển xem xét tính kinh tế cho một dự án có quy mô lớn như dự án La Gàn, việc sụt giảm doanh thu tài chính cùng việc cắt giảm điện không được dự kiến trước có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới các dự án và cản trở việc xây dựng dự án.
Trong ngắn hạn, giải pháp tối ưu chính là kiểm soát các nguồn năng lượng mới bằng những hướng dẫn rõ ràng về công suất phát trong một thời gian nhất định (như trong dự thảo mới nhất của Quy hoạch Điện VIII). Tuy nhiên, một đảm bảo kiểm soát chặt chẽ việc nâng cấp và các thỏa thuận thương mại giữa các nhà máy phát điện (hay các dự án) và đơn vị vận hành lưới điện (EVN) là cần thiết để tạo sự chắc chắn và nghĩa vụ pháp lý cho đôi bên.
Về dài hạn, Việt Nam sẽ được hưởng nhiều lợi ích từ việc lưu trữ năng lượng, khi mà công nghệ phát triển cho phép thương mại hóa tiềm năng khổng lồ từ điện gió ngoài khơi. Việc lưu trữ năng lượng có nhiều hình thức như tích trữ điện dạng bơm tích năng, Power to X (amoniac, hydro, v.v.), lưu trữ pin,.. Tuy nhiên, công nghệ đằng sau những loại hình lưu trữ năng lượng này trên quy mô lớn vẫn còn ở giai đoạn tương đối mới và cần thời gian để phát triển thêm.
Có ý kiến cho rằng, năng lượng gió và mặt trời ở Việt Nam đang được khai thác chưa phải là một nguồn điện hoàn chỉnh mà là giải pháp tiết kiệm năng lượng thì đúng hơn. Có nghĩa là phải có nguồn khác để dự phòng cho nó khi vào những giờ không thể phát. Kinh nghiệm của các nước đã xảy ra khủng hoảng năng lượng cho thấy tỷ lệ của các nguồn năng lượng tái tạo chỉ nên dưới 10% trong giai đoạn hiện nay. Quan điểm của ông thế nào?
Đúng là năng lượng gió có thể hay biến đổi, tuy nhiên điện gió ngoài khơi thường ổn định hơn so với trên bờ hoặc gần bờ. Hiện nay, Việt Nam chủ yếu đang có các dự án điện gió trên bờ, gần bờ và những dự án này thường có công suất phát điện nhỏ với hệ số công suất thấp, chưa kể đến các yêu cầu cắt giảm sản lượng.
Điện gió ngoài khơi ổn định hơn vì nguồn gió ngoài khơi dồi dào hơn, mạnh hơn và có xu hướng ít ảnh động đến môi trường hơn. Dựa vào những cải tiến trong công nghệ tuabin gió, hệ số công suất của các dự án điện gió đang tăng lên một cách nhanh chóng. Hiện nay, công suất điện gió ngoài khơi trên 50% đang trở nên phổ biến.
Trên thực tế, các dự án điện gió ngoài khơi hiện đại có thể đạt công suất so sánh được với các nhà máy nhiệt điện than và điện khí (thông thường có xu hướng trong khoảng 50% đến 60%). Đây có thể là một giải pháp tối ưu cho Việt Nam khi xem xét tập trung vào các dự án năng lượng tái tạo với quy mô lớn. Và chúng tôi kì vọng dự án điện gió ngoài khơi La Gàn với công suất 3.5GW sẽ là một trong số đó...
Xin cảm ơn ông!
Sớm gỡ rào cản cho điện gió ngoài khơi Các chuyên gia và doanh nghiệp cho rằng, Việt Nam có tiềm năng lớn với điện gió ngoài khơi, tuy nhiên vẫn còn nhiều rào cản cần tháo gỡ cho loại hình năng lượng này phát triển. Trụ tua-bin trên biển của Nhà máy điện gió số 5 (xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre). Ảnh: Công Trí/TTXVN Chia sẻ tại...